Tài liệu tham khảo là gì? Các loại tài liệu tham khảo và cách trích dẫnTÀI LIỆU THAM KHẢO HỌC PHẦN III: QUÂN SỰ CHUNG

Bài 1: Chế độ học tập công tác trong ngày, trong tuần

MỞ ĐẦU

Giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Qua đó, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ có điều kiện tu dưỡng phẩm chât đạo đức và rèn luyện năng lực thực tế để sẵn sàng thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

 Quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách Nhà nước về công tác Giáo dục quốc phòng và an ninh nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của mục tiêu giáo dục. Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã triển khai biên soạn tập bài giảng “Quân sự chung”. Nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập.

Căn cứ để biên soạn tài liệu: Giáo trình giáo dục an ninh. Nhà xuất bản giáo dục việt Nam tập 1,2.

NỘI DUNG

  1. QUY ĐỊNH VỀ THỜI GIANG LÀM VIỆC TRONG NGÀY, TRONG TUẦN

- Trong điều kiện bình thường, khi đóng quân trong doanh trại, thời gian làm việc, sinh hoạt và nghỉ ngơi trong tuần, trong ngày được phân chia như sau: Mỗi tuần làm việc 5 ngày và nghỉ 2 ngày vào thứ 7 và chủ nhật; nếu nghỉ vào ngày khác trong tuần phải do tư lệnh quân khu, quân chủng, quân đoàn và tương đương trở lên quy định thống nhất cho đơn vị thuộc quyền. Ngày lễ, tết được nghỉ theo quy định của Nhà nước.

- Quân nhân làm việc vào ngày nghỉ thì được nghỉ bù. Thời gian và quyền hạn cho quân nhân nghỉ bù do người chỉ huy cấp đại đội và tương đương trở lên quyết định. Ngày nghỉ được tổ chức vui chơi giải trí, hoạt động thể thao, văn hóa, văn nghệ, vệ sinh môi trường, nhưng phải dành một thời gian nhất định để quân nhân có điều kiện giải quyết việc riêng. Mỗi ngày làm việc 8 giờ, còn lại là thời gian ngủ, nghỉ sinh hoạt và phải được phân chia cụ thể theo thời gian biểu trong ngày. Trong điều kiện đặc biệt, thời gian làm việc và nghỉ sẽ có quy định riêng.

- Sử dụng các buổi tối trong tuần: Tất cả các buổi tối trong tuần, (trừ các buổi tối trước và trong ngày nghỉ) phải tổ chức học tập hoặc sinh hoạt. Thời gian học tập, sinh hoạt mỗi buổi tối không quá 2 giờ. Những đêm trước ngày nghỉ có thể ngủ muộn hơn, nhưng không quá 23 giờ và sáng hôm sau thức dậy không quá 7 giờ.

- Thời gian làm việc của từng mùa Thời gian làm việc theo 2 mùa quy định như sau; Mùa nóng từ ngày 01 tháng 4 đến 31 tháng 10. Mùa lạnh từ ngày 01 tháng 11 đến 31 tháng 3 năm sau. Thời gian biểu làm việc hàng ngày theo từng mùa do tư lệnh quân khu, quân chủng, quân đoàn và tương đương trở lên quy định.

  1. CHẾ ĐỘ SINH HOẠT HỌC TẬP CÔNG TÁC TRONG NGÀY

2.1 Chế độ treo quốc kỳ

Các đơn vị từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên, khi đóng quân cùng trong một doanh trại phải tổ chức treo Quốc kỳ hàng ngày ở một vị trí trang trọng nhất.

Các đại đội, tiểu đoàn và tương đương khi đóng quân độc lập thì tổ chức treo Quốc kỳ trên sân chào cờ, duyệt đội ngũ của đơn vị. Thời gian treo Quốc kỳ lúc 06 giờ, thời gian hạ Quốc kỳ lúc 18 giờ hàng ngày

2.2. Chế độ thức dậy

Trực chỉ huy và trực ban phải thức dậy trước 10 phút để trực tiếp ra hiệu lệnh báo thức và đi kiểm tra đôn đốc mọi quân nhân trong đơn vị dậy đúng giờ.

Khi có hiệu lệnh báo thức mọi quân nhân phải dậy ngay, rời khỏi phòng ngủ để ra sân tập thể dục hoặc chuẩn bị sẵn sàng công tác

2.3. Chế độ thể dục sáng

Đúng giờ quy định mọi quân nhân trong đơn vị phải tập thể dục sáng, trừ người làm nhiệm vụ, đau ốm được chỉ huy trực tiếp cho phép.

Thời gian tập thể dục 20 phút. Trang phục tập thể dục do người chỉ huy đơn vị quy định thống nhất, theo điều kiện thời tiết cụ thể.

Nội dung tập thể dục theo hướng dẫn của ngành thể dục, thể thao quân đội. Trung đội hoặc đại đội và tương đương là đơn vị tổ chức tập thể dục.

Tập thể dục có súng phải khám súng trước và sau khi tập.

2.4. Chế độ kiểm tra sáng

Kiểm tra sáng được tiến hành hàng ngày (trừ ngày nghỉ và ngày chào cờ). Tổ chức kiểm tra ở tiểu đội, trung đội và tương đương. Nội dung kiểm tra theo lịch thống nhất trong tuần của đại đội và tương đương. Kiểm tra ở cấp nào do người chỉ huy cấp đó điều hành. Khi kiểm tra, phát hiện sai sót phải sửa ngay.

Thời gian kiểm tra sáng 10 phút.

2.5. Chế độ học tập

* Học tập trong hội trường

Người phụ trách hoặc trực ban lớp học phải kiểm tra quân số, trang phục, chỉ huy bộ đội vào vị trí, hô “Nghiêm" và báo cáo giảng viên.

Nếu đơn vị có mang theo vũ khí phải tổ chức khám súng trước và quy định nơi giá (đặt) súng.

Quân nhân ngồi trong hội trường phải đúng vị trí quy định, tập trung tư tưởng theo dõi nội dung học tập.

Khi ra hoặc vào lớp phải đứng nghiêm báo cáo xin phép giảng viên. Được phép mới ra hoặc vào lớp.

Sau mỗi tiết hoặc giờ học tập được nghỉ 5 đến 10 phút. Hết giờ nghỉ nhanh chóng vào lớp, tiếp tục nghe giảng. Giảng viên phải chấp hành đúng thời gian. Nếu giảng quá giờ quy định, phải báo cho người phụ trách lớp học và người học biết.

Hết giờ học, người phụ trách hoặc trực ban lớp hô “Đứng dậy” và hô ''Nghiêm'', báo cáo giảng viên cho xuống lớp, sau đó chỉ huy bộ đội ra về.

*  Học tập ngoài thao trường

Đi và về phải thành đội ngũ. Thời gian đi và về không tính vào thời gian học tập. Nếu một lần đi (về) trên một giờ được tính một nửa vào thời gian học tập;

Trước khi học tập, người phụ trách hoặc trực ban lớp học phải tập hợp bộ đội, kiểm tra quân số, trang phục, vũ khí, học cụ, khám súng, sau đó báo cáo với giảng viên.

Phải chấp hành nghiêm kỷ luật thao trường, tập luyện nơi gần địch phải có kế hoạch sẵn sàng chiến đấu. Súng đạn, trang bị chưa dùng trong luyện tập phải có người canh gác. Hết giờ luyện tập người phụ trách hoặc trực ban lớp phải tập hợp bộ đội, khám súng, kiểm tra quân số, vũ khí, học cụ và các trang bị khác, chỉnh đốn hàng ngũ, báo cáo giảng viên cho bộ đội nghỉ, sau đó chỉ huy bộ đội về doanh trại hoặc nghỉ tại thao trường.

Trường hợp có cấp trên của giảng viên ở đó thì giảng viên phải báo cáo cấp trên trước khi lên, xuống lớp.

2.6. Chế độ ăn uống

Người chỉ huy đơn vị có tổ chức bếp ăn phải quản lý nhà ăn, nhà bếp; bảo đảm tiêu chuẩn định lượng; ăn sạch, ăn nóng và ăn đúng giờ quy định.

Hàng ngày chỉ đạo trực ban, tổ kinh tế, quân y kiểm tra số người ăn; số lượng, chất lượng lương thực, thực phẩm sử dụng theo tiêu chuẩn được hưởng; vệ sinh nhà ăn, nhà bếp sạch sẽ.

Thực hiện kinh tế công khai trong ngày, tháng; giải quyết mọi thắc mắc, đề nghị về ăn uống của quân nhân.

Cấm sử dụng thức ăn nấu chưa chín, ôi thiu; thịt súc vật bị bệnh, đồ hộp hỏng; các loại lương thực, thực phẩm của địch bỏ lại chưa được quân y kiểm tra. Cấm để chất độc, vật bẩn, hôi hám vào khu thực phẩm, nhà bếp, nhà ăn. Nếu dùng thuốc diệt muỗi, chuột, mối phải có biện pháp quản lý chặt chẽ. Nước ăn, uống phải trong, sạch. Nước uống, nước nhúng bát đũa phải đun sôi.

 Mỗi bữa ăn phải để lại 1 phần suất ăn làm lưu nghiệm do quân y quản lý. Sau 24 giờ không có việc gì xảy ra mới bỏ đi.

Khi đến nhà ăn phải đúng giờ, đi ăn trước hay sau giờ quy định phải được chỉ huy hoặc trực ban đơn vị đồng ý và báo trước cho nhà bếp.

Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên chưa phải là sĩ quan đến nhà ăn phải tập hợp đi thành đội ngũ. Trước khi ăn phải nhúng bát đũa qua nước sôi. Ăn xong xếp gọn bát, đĩa trên mặt bàn, xếp ghế vào gầm bàn trước khi rời nhà ăn

2.7. Chế độ bảo quản vũ khí, khí tài, trang bị

Khi quân nhân được giao vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật phải chấp hành nghiêm chế độ bảo quản hàng ngày, hàng tuần.

Hàng ngày: vũ khí bộ binh bảo quản 15 phút, vũ khí, trang bị kỹ thuật, khí tài phức tạp bảo quản 30 phút, thời gian bảo quản vào giờ thứ 8.

 Hàng tuần: Vũ khí bộ binh bảo quản 40 phút, vũ khí, trang bị, khí tài phức tạp bảo quản từ 3 đến 5 giờ, thời gian bảo quản vào ngày làm việc cuối tuần.

Sau khi bắn đạn thật phải bảo quản vũ khí theo đúng quy trình kỹ thuật.

Lau chùi, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật hàng ngày, hàng tuần do chỉ huy trực tiếp tổ chức tiến hành có sự hướng dẫn của nhân viên chuyên môn kỹ thuật.

Vị trí lau chùi vũ khí, trang bị kỹ thuật phải sạch sẽ. Có đủ bàn, bạt, dụng cụ và các điều kiện để tháo, lắp, bảo quản. Trước khi lau chùi phải khám súng.

Tuân thủ đúng quy tắc, quy trình tháo lắp, mức độ tháo, lau chùi hàng ngày, hàng tuần theo quy định đối với từng loại vũ khí, khí tài. Khi lau xong phải khám súng kiểm tra.

Người chỉ huy phải phân công quân nhân lau chùi, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật của những người vắng mặt.

2.8. Chế độ thể thao, tăng gia sản xuất

Hàng ngày sau giờ lau vũ khí, trang bị, các đơn vị phải tổ chức tập thể thao và tăng gia sản xuất cải thiện đời sống. Thời gian từ 40 đến 45 phút. Người chỉ huy cấp đại đội, trung đội và tương đương căn cứ vào tình hình cụ thể để phân chia lực lượng cho hợp lý và bố trí luân phiên trong tuần để bảo đảm mọi quân nhân đều được tập thể thao và tăng gia sản xuất.

Tổ chức tập thể thao buổi chiều phải căn cứ vào tình hình sân bãi và dụng cụ hiện có để sắo xếp, bảo đảm mọi quân nhân đều được tập luyện. Nội dung luyện tập theo hướng dẫn của ngành thể thao quân đội.

Người chỉ huy phải trực tiếp tổ chức, hướng dẫn tập luyện. Các môn tập luyện dễ xảy ra tai nạn phải tổ chức bảo đảm an toàn.

Tổ chức tăng gia sản xuất để cải thiện đời sống phải chặt chẽ, có kế hoạch thống nhất trong từng đơn vị.

Người chỉ huy phải căn cứ vào tình hình cụ thể của nơi đóng quân để xác định kế hoạch, chỉ tiêu tăng gia sản xuất cho đơn vị được phù hợp. Quân nhân được phân công tăng gia sản xuất phải tích cực, tự giác thực hiện, không được làm việc khác trong giờ tăng gia sản xuất.

2.9. Chế độ đọc báo, nghe tin

Hàng ngày trước giờ học tập sinh hoạt tối 15 phút quân nhân đều được đọc báo, nghe tin. Việc đọc báo, nghe tin tập trung chỉ tổ chức trong các ngày sinh hoạt tối, còn các ngày khác tự cá nhân nghiên cứu.

Đọc báo, nghe tin tập trung tổ chức ở cấp trung đội hoặc đại đội và tương đương. Đến giờ quy định, mọi quân nhân phải có mặt ở vị trí quy định và giữ trật tự để nghe.

Người được phân công phụ trách đọc báo phải chuẩn bị trước để đọc lưu loát dễ nghe.

Người phụ trách hệ thống truyền tin, trước giờ truyền tin phải kiểm tra máy móc bảo đảm nghe tốt.

2.10. Chế độ điểm danh, điểm quân số

Hàng ngày trước giờ ngủ, phải tiến hành điểm danh, điểm quân số, nhằm quản lý chặt chẽ quân số, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu.

Trung đội và tương đương 1 tuần điểm danh 2 lần. Các tối khác điểm quân số.

Đại đội và tương đương 1 tuần điểm danh một lần.

Chỉ huy tiểu đoàn và tương đương mỗi tuần dự điểm danh của 1 đại đội. Thời gian điểm danh hoặc điểm quân số không quá 30 phút. Điểm danh, điểm quân số ở cấp nào do chỉ huy cấp đó trực tiếp tiến hành.

Đến giờ điểm danh, điểm quân số, mọi quân nhân có mặt tại đơn vị phải tập hợp thành đội ngũ, trang phục đúng quy định;

Chỉ huy đơn vị đọc danh sách các quân nhân ở từng phân đội theo quân số đơn vị quản lý (cấp bậc, họ tên từng quân nhân). Quân nhân nghe đọc tên mình phải trả lời “Có”. Quân nhân vắng mặt, người chỉ huy trực tiếp của quân nhân đó trả lời “Vắng mặt” kèm theo lý do.

Điểm danh xong, người chỉ huy nhận xét và phổ biến công tác ngày hôm sau.

Khi điểm quân số cũng tiến hành như điểm danh, nhưng không phải gọi tên. Người chỉ huy trực tiếp kiểm tra quân số thuộc quyền, sau đó báo cáo theo hệ thống tổ chức lên người chỉ huy điểm quân số.

Nhận báo cáo xong, người chỉ huy điểm quân số có thể kiểm tra lại toàn bộ hoặc một số phân đội.

2.11. Chế độ ngủ nghỉ

Trước giờ ngủ, trực ban, cán bộ chỉ huy trực tiếp các phân đội phải đôn đốc mọi người chuẩn bị chân, chiếu, mắc màn để ngủ được đúng giờ. đến giờ ngủ, kiểm tra việc sử dụng ánh sáng và quần áo, giày dép, trang bị để đúng nơi quy định.

Quân nhân khi lên giường ngủ phải để quần áo, giày dép đúng vị trí, gọn gàng, phải trật tự, yên tĩnh. Những người có việc làm quá giờ đi ngủ phải báo cáo người chỉ huy hoặc trực ban và phải làm việc ở nơi quy định. Những người làm nhiệm vụ về muộn phải nhẹ nhàng vào giường ngủ, không làm ảnh hưởng đến giấc ngủ người khác.

  1. CHẾ ĐỘ SINH HOẠT, HỌC TẬP, CÔNG TÁC TRONG TUẦN

3.1. Chế độ chào cờ, duyệt đội ngũ

Cấp đại đội, tiểu đoàn và tương đương ở các đơn vị, các học viện, nhà trường đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn phải tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ vào sáng thứ 2 hàng tuần.

Cơ quan Trung đoàn, Lữ đoàn và các đơn vị trực thuộc của Trung, Lữ đoàn trong điều kiện đóng quân tập trung phải tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ chung vào sáng thứ 2 hàng tuần, do phó Trung đoàn, Lữ đoàn trưởng kiêm tham mưu trưởng hoặc phó Trung, Lữ đoàn trưởng quân sự chỉ huy. Nếu các đơn vị trực thuộc đóng quân xa cơ quan trung, Lữ đoàn thì phải tổ chức chào cờ theo quy định.

Cấp Trung đoàn và tương đương, học viện, trường; cơ quan cấp sư đoàn; cơ quan quân sự, biên phòng tỉnh (thành) khi đóng quân trong doanh trại tập trung tổ chức chào cờ duyệt đội ngũ 1 lần vào sáng thứ 2 tuần đầu tháng.

Cơ quan quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn, Bộ đội Biên phòng và tương đương, khi đóng quân trong doanh trại tập trung tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ toàn cơ quan một lần vào sáng thứ hai tuần đầu, tháng đầu quý, do một thủ trưởng bộ tư lệnh chỉ huy, các tháng khác do từng cục tự tổ chức 1 lần vào sáng thứ 2 tuần đầu tháng.

Học viện, trường có quân số nhiều hơn đơn vị cấp Trung đoàn trước khi tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ, người chỉ huy phải nắm quân số, quy định vị trí tập hợp của từng cơ quan, đơn vị và thứ tự duyệt đội ngũ trong diễu hành; khi chỉnh đốn hàng ngũ, người chỉ huy đứng tại vị trí chỉ huy (chính giữa phía trước đội hình) chỉ huy đơn vị, không phải về bên phải đội hình chỉnh đốn hàng ngũ.

Cơ quan quân sự huyện (quận), đồn Biên phòng tổ chức chào cờ một lần vào sáng thứ 2 tuần đầu tháng.

Trong tuần cấp trên tổ chức chào cờ thì cấp dưới không tổ chức chào cờ. Các đơn vị đóng quân gần địch do Tư lệnh Quân khu, Quân đoàn và tương đương được quyền cho phép đơn vị thuộc quyền không tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ nếu xét thấy không bảo đảm an toàn, sẵn sàng chiến đấu của đơn vị.

Tất cả quân nhân có mặt trong đơn vị phải tham gia chào cờ, trừ người làm nhiệm vụ hoặc đau ốm được người chỉ huy trực tiếp cho phép vắng mặt; quân nhân phải tham gia duyệt đội ngũ.

Chào cờ, duyệt đội ngũ ở cấp nào, do người chỉ huy cấp đó chủ trì và điều hành.

Chào cờ cơ quan từ cấp Trung đoàn và tương đương trở lên, do phó chỉ huy kiêm tham mưu trưởng hoặc phó chỉ huy quân sự chỉ huy.

Đội hình chào cờ, duyệt đội ngũ thực hiện theo quy định của Điều lệnh đội ngũ.

Thời gian chào cờ, duyệt đội ngũ được lấy vào giờ hành chính; cấp đại đội, tiểu đoàn và cơ quan có số quân tương đương không quá 30 phút; cấp Trung đoàn, nhà trường và cơ quan có quân số tương đương không quá 40 phút.

Đến 18 giờ trong ngày, trực ban nội vụ hạ cờ xuống.

3.2. Chế độ thông báo chính trị

Đối với cấp tiểu đoàn, đại đội độc lập và tương đương, mỗi tuần quân nhân có 30 phút chính thức để nghe thông báo chính trị vào sáng thứ hai ngay sau khi kết thúc chào cờ và nhận xét tuần, trước khi duyệt đội ngũ.

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng, công nhân viên quốc phòng một tháng được nghe thông báo chính trị một lần 2 giờ (không tính vào thời gian làm việc chính thức) do cấp Trung đoàn và tương đương trở lên tổ chức.

Nội dung do cán bộ chính trị phụ trách.

3.3. Chế độ tổng vệ sinh doanh trại

Mỗi tuần các đơn vị phải tổ chức và bố trí thời gian thống nhất để làm tổng vệ sinh doanh trại, đảm bảo môi trường sạch đẹp.

  1. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN HỌC GDQP&AN

Nắm chắc các chế độ sinh hoạt học tập, công tác trong ngày, trong tuần để thực hiện đầy đủ với ý thức tự giác, tích cực. Chấp hành nghiêm chỉnh những nội quy, quy định của Trung tâm trong lĩnh vực học tập, sinh hoạt tập thể.

Phát huy tinh thần trách nhiệm “mình vì mọi người”, xây dựng ý thức tập thể, tinh thần đồng đội. Khắc phục thói quen và những điểm còn hạn chế của bản thân khi thực hiện các chế độ quy định. Tự giác ghép mình vào kỷ luật, rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, khẩn trương.

Gương mẫu trong mọi hoạt động, không có những việc làm gây ảnh hưởng đến cá nhân và tập thể khi thực hiện các chế độ trong ngày, đặc biệt đối với chế độ học tập và chế độ ngủ, nghỉ.

Có tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình để xây dựng tập thể, tích cực tham gia đóng góp ý kiến khi phát hiện sinh viên trong tiểu đội, trung đội chấp hành các chế độ quy định chưa nghiêm để có biện pháp dộng viên, giúp đỡ bạn khắc phục khuyết điểm.

Có thái độ học tập, rèn luyện nghiêm túc. Tích cực tham gia các hoạt động phong trào của đơn vị.

KẾT LUẬN

Quản lý bộ đội thực hiện chế độ làm việc, sinh hoạt, học tập và công tác là hoạt động của người chỉ huy phân đội được tiến hành thường xuyên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Học tập nghiên cứu hiểu rõ ý nghĩa, nắm chắc nội dung, biện pháp quản lý bộ đội thực hiện chế độ làm việc, sinh hoạt, học tập và công tác là trách nhiệm của người chỉ huy.

Quản lý, chỉ huy đơn vị thực hiện thống nhất góp phần xây dựng đơn vị có nền nếp chính quy, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao

 

Bài 2: Chế độ nề nếp chính quy, bố trí trật tự nội vụ trong doanh trại

 

MỞ ĐẦU

Giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Qua đó, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ có điều kiện tu dưỡng phẩm chât đạo đức và rèn luyện năng lực thực tế để sẵn sàng thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

 Quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách Nhà nước về công tác Giáo dục quốc phòng và an ninh nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của mục tiêu giáo dục. Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã triển khai biên soạn tập bài giảng “Quân sự chung”.

Căn cứ để biên soạn tài liệu: Giáo trình giáo dục an ninh. Nhà xuất bản giáo dục việt Nam tập 1,2.

NỘI DUNG

  1. CÁC CHẾ ĐỘ NỀN NẾP CHÍNH QUY, BỐ TRÍ TRẬT TỰ NỘI VỤ TRONG DOANH TRẠI

1.1. CÁC CHẾ ĐỘ NỀ NẾP CHÍNH QUY

1.1.1. Chế độ hội họp

Hội họp được tổ chức theo từng cấp ở đơn vị. Tuỳ tính chất nhiệm vụ của đơn vị để tổ chức họp toàn thể quân nhân trong đơn vị hoặc chỉ họp riêng cán bộ.

Người chủ trì hội họp: Khi hội họp, giao ban chỉ có một người chủ trì. Hội họp, giao ban ở cấp nào do người chỉ huy hoặc chính uỷ, chính trị viên cấp đó chuẩn bị nội dung, xác định thành phần và chủ trì điều khiển hội họp, giao ban.

Hội họp, giao ban thuộc lĩnh vực, công tác nào thì người chủ trì lĩnh vực công tác đó hoặc người được ủy quyền chủ trì điều khiển. Người làm công tác tổ chức hội họp, giao ban báo cáo người chủ trì, nếu có cấp trên đến dự thì báo cáo cấp trên.

Nội dung họp phải chuẩn bị trước, ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ. Người điều khiển họp phải lắng nghe ý kiến tham gia và kết luận rõ ràng. Người dự họp phải căn cứ vào mục đích yêu cầu, nội dung, thời gian để phát biểu, trong khi họp phải nghe ý kiến của nhau và nắm chắc kết luận của người điều khiển họp.

1.1.2. Chế độ trực ban, trực nhật

- Trực ban nội vụ

Trực ban nội vụ được tổ chức trong từng cơ quan, đơn vị, để giúp người chỉ huy duy trì kỷ luật, trật tự nội vụ, vệ sinh và duy trì thời gian làm việc trong đơn vị.

 - Tổ chức trực ban nội vụ

Đơn vị từ cấp đại đội, tiểu đoàn và tương đương; các cơ quan từ cấp trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn, quân đoàn, binh chủng, quân chủng, Bộ đội Biên phòng, cơ quan bộ chỉ huy quân sự, Bộ đội Biên phòng tỉnh (thành phố); ban chỉ huy quân sự huyện (quận); cơ quan quân khu, học viện, trường, bệnh viện, xí nghiệp và tương đương phải tổ chức trực ban nội vụ.

 - Trách nhiệm của chỉ huy và thời gian trực ban nội vụ

Người chỉ huy từng cấp có trách nhiệm chỉ định quân nhân làm trực ban nội vụ và phải thông báo đến từng người thực hiện trước một tuần. Thời gian làm trực ban nội vụ là một ngày đêm. Trực ban vào ngày nghỉ được nghỉ bù.

- Yêu cầu trực ban nội vụ

Quân nhân làm trực ban nội vụ phải nắm được chức trách và chuẩn bị cá nhân đầy đủ để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được liên tục trong suốt phiên trực.

Quân nhân làm nhiệm vụ trực ban trang phục phải chỉnh tề, đeo biển trực ban. Sau khi hết nhiệm vụ phải bàn giao cho trực ban mới trước người chỉ huy hoặc người được ủy quyền.

- Trực ban nội vụ đơn vị

Trực ban nội vụ tiểu đoàn do sĩ quan trong tiểu đoàn từ trung đội trưởng đến phó đại đội trưởng và chính trị viên phó đại đội luân phiên đảm nhiệm.

Trực ban nội vụ đại đội do phó trung đội trưởng, tiểu đội trưởng và quân nhân chuyên nghiệp trong đại đội luân phiên đảm nhiệm.

Chức trách của trực ban nội vụ ở đơn vị

Nắm vững lịch công tác hàng ngày của các phân đội kịp thời chuyển đến các phân đội những mệnh lệnh và chỉ thị của người chỉ huy.

Phát hiệu lệnh về thời gian làm việc, đôn đốc các đơn vị hoạt động theo thời gian biểu đã quy định.

Duy trì trật tự nội vụ trong đơn vị, nhắc nhở mọi người chấp hành các quy định về trang phục, lễ tiết, tác phong, quy định về vệ sinh trong doanh trại, các quy định về phòng gian giữ bí mật, bảo đảm an toàn. Kiểm tra việc chấp hành nhiệm vụ của trực ban khu trang bị kỹ thuật (nếu có), trực ban nghiệp vụ, phân đội canh phòng.

Nắm tình hình quân số, vũ khí trang bị của các phân đội, báo cáo chỉ huy và trực ban nội vụ cấp trên. Tiếp đón, hướng dẫn khách đến đơn vị công tác.

Trường hợp xảy ra cháy nổ, thiên tai, thảm họa, tai nạn hoặc có việc bất trắc, phải nhanh chóng phát lệnh báo động, đồng thời báo cáo ngay với chỉ huy và trực ban nội vụ cấp trên để xử trí.

Kiểm tra việc bảo đảm ăn uống trong ngày của đơn vị, đôn đốc quân y chăm sóc bữa ăn cho người đau ốm tại trại.

Ghi nhật ký trực ban về tình hình đơn vị theo mẫu quy định để bàn giao trực ban mới.

- Trực ban nội vụ cơ quan

Trực ban nội vụ cơ quan do người chỉ huy cơ quan chỉ định sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp thuộc quyền luân phiên đảm nhiệm.

Chức trách trực ban cơ quan

Đôn đốc nhắc nhở mọi người chấp hành các quy định về trật tự nội vụ, lễ tiết tác phong, thời gian làm việc, phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm an toàn cơ quan.

Tiếp nhận và chuyển giao những công điện thông báo đến các đơn vị và cơ quan. Làm xong báo cáo người chỉ huy.

Nắm tình hình quân số, các việc đột xuất trong ngày báo cáo chỉ huy cơ quan.

Kiểm tra việc bảo đảm ăn uống trong ngày của đơn vị, đôn đốc quân y chăm sóc bữa ăn cho người đau ốm tại trại.

Ghi nhật ký trực ban về tình hình đơn vị theo mẫu quy định để bàn giao trực ban mới.

- Trực ban nội vụ cơ quan

Trực ban nội vụ cơ quan do người chỉ huy cơ quan chỉ định sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp thuộc quyền luân phiên đảm nhiệm.

Chức trách trực ban cơ quan

Đôn đốc nhắc nhở mọi người chấp hành các quy định về trật tự nội vụ, lễ tiết tác phong, thời gian làm việc, phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm an toàn cơ quan.

Tiếp nhận và chuyển giao những công điện thông báo đến các đơn vị và cơ quan. Làm xong báo cáo người chỉ huy.

Nắm tình hình quân số, các việc đột xuất trong ngày báo cáo chỉ huy cơ quan. Chức trách trực nhật

Hàng ngày vào giờ thể dục, thể thao, làm vệ sinh nơi công cộng, lấy nước uống, chăm sóc người ốm đau trong trung đội, tiểu đội.

Nhắc nhở mọi người trong trung đội, tiểu đội, chấp hành các quy định về trật tự nội vụ, vệ sinh, trang phục, dâu, tóc đúng quy định, giữ gìn vũ khí trang bị và các tài sản khác, chấp hành thời gian sinh hoạt, học tập công tác theo thời gian biểu.

1.1.3. Chế độ báo động luyện tập

Các đơn vị phải tổ chức báo động luyện tập nhằm rèn luyện bộ đội tinh thần sẵn sàng chiến đấu, luôn ở tư thế chủ động, kịp thời giải quyết các tình huống xảy ra.

* Hình thức báo động

Báo động luyện tập tiến hành ở từng cấp, từng bộ phận hoặc toàn cơ quan, đơn vị và được chia thành các loại như sau:

Báo động luyện tập chiến đấu tại chỗ theo các phương án tác chiến của đơn vị.

Báo động luyện tập di chuyển đến các vị trí để nhận nhiệm vụ chiến đấu được giao.

Báo động luyện tập làm nhiệm vụ phòng chống cháy nổ, bão lụt, thảm họa môi trường, cứu hộ, cứu nạn.

Báo động luyện tập chuyển trạng thái theo Chỉ lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về sẵn sàng chiến đấu.

Quyền hạn báo động luyện tập và kết thúc báo động do người chỉ huy từng cấp quyết định.

Người chỉ huy cấp trên hoặc người được cấp trên ủy quyền kiểm tra báo động luyện tập phải căn cứ vào mục đích, yêu cầu việc rèn luyện của đơn vị, căn cứ vào kế hoạch, nội dung báo động mà cấp trên đã phê duyệt để tiến hành.

Trường hợp báo động luyện tập vượt cấp hoặc báo động đột xuất cần thông báo trước một thời gian nhất định đến người chỉ huy đơn vị mà cấp trên có ý định đến kiểm tra.

Chế độ báo động; báo động luyện tập tiến hành theo định kỳ tuần, tháng hoặc bất thường.

Báo động luyện tập có liên quan đến nhân dân địa phương nơi đóng quân, người chỉ huy phải thông báo cho chính quyền địa phương biết.

Trách nhiệm của quân nhân: Mọi quân nhân đều có trách nhiệm phòng gian, giữ bí mật; tuyệt đối không được làm lộ bí mật của cơ quan, đơn vị, của quân đội và Nhà nước.

1.1.4. Trách nhiệm của người chỉ huy và chính uỷ, chính trị viên

Người chỉ huy và chính uỷ, chính trị viên các cấp phải gương mẫu chấp hành kỷ luật phòng gian, giữ bí mật, có trách nhiệm thường xuyên giáo dục, kiểm tra cấp dưới thuộc quyền triệt để chấp hành các quy định về phòng gian, giữ bí mật trong mọi lĩnh vực công tác, học tập, sinh hoạt, chiến đấu. Phải quy định cụ thể việc quản lý kiểm tra công văn, tài liệu trong phạm vi thuộc quyền.

Trách nhiệm của quân nhân văn thư, lưu trữ: Quân nhân khi giữ gìn, sao lục, lưu trữ, giao nhận, đăng ký, thống kê công văn, tài liệu phải đúng quy tắc bảo mật, không được để lộ bí mật làm mất công văn, tài liệu, con dấu. Khi để thất lạc hay mất tài liệu, sổ công văn hoặc phát hiện các vấn đề lộ bí mật phải báo cáo ngay cho cấp trên trực tiếp và cơ quan bảo mật, bảo vệ để tiến hành điều tra xác minh kịp thời báo cáo lên cấp trên xử trí.

1.1.5. Nghiêm cấm quân nhân

Tìm hiểu những điều bí mật không thuộc phạm vi chức trách.

Quan hệ với tổ chức và phần tử phản cách mạng, không để người khác lợi dụng làm việc có hại đến lợi ích của Nhà nước, của quân đội, của nhân dân.

Xem tài liệu, sách báo, truyền đơn của địch, truyền tin đồn nhảm.

  1. BỐ TRÍ TRẬT TỰ NỘI VỤ TRONG DOANH TRẠI

2.1. QUI ĐỊNH ĐÓNG QUÂN TRONG DOANH TRẠI

2.1.1. Tổ chức đóng quân

Tổ chức đóng quân trong doanh trại phải đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, thuận tiện công tác, huấn luyện, sinh hoạt, bảo vệ sức khỏe. Phải bảo đảm cho mọi quân nhân được ăn, ở, sinh hoạt trong doanh trại theo đúng tiêu chuẩn quy định của Nhà nước, Quân đội.

Trong điều kiện bình thường thời bình, người chỉ huy từ cấp sư đoàn hoặc tương đương trở lên được quyền cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng và công nhân viên quốc phòng thuộc quyền được ăn, nghỉ tại gia đình ngoài doanh trại trong ngày nghỉ, giờ nghỉ. Những người được phép ăn, nghỉ tại gia đình phải đăng ký họ tên, địa chỉ gia đình, số máy điện thoại (nếu có) vào sổ của đơn vị. Khi thay đổi phải báo cáo ngay.

2.1 2.  Yêu cầu đóng quân

Quân nhân không được ăn, ở tại nơi cất giữ tài liệu mật; nơi để lương thực, thực phẩm, nhà kho; nơi để trang thiết bị kỹ thuật; nơi để xe pháo, phòng thí nghiệm.

Khu vực gia đình sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng, công nhân viên quốc phòng, trạm đón tiếp gia đình quân nhân phải ở ngoài doanh trại hoặc ngăn thành khu riêng biệt.

Trong doanh trại phải có phòng ngủ, nhà tắm, nơi vệ sinh riêng cho nữ quân nhân. Không để người ngoài quân đội ăn, ở, sinh hoạt trong doanh trại.

2.1.3. Thành phần doanh trại đóng quân

Tổ chức đóng quân của đơn vị phải có

Nhà ngủ của cán bộ, chiến sĩ

Nhà làm việc, học tập, phòng trực ban, bốt gác

Nhà ăn, nhà bếp, nhà kho;  nhà để xe Hội trường, phòng Hồ Chí Minh

Nơi để vũ khí, dụng cụ, phương tiện, khí tài huấn luyện

Nơi lau vũ khí, trang bị

Sân tập hợp chào cờ, tập đội ngũ, thể dục thể thao

Nhà tắm, nhà vệ sinh.

Đơn vị từ cấp trung đoàn trở lên phải có sở chỉ huy, bệnh xá, trạm khách, phòng tạm giữ quân nhân vi phạm kỷ luật.

2.2. BỐ TRI TRẬT TỰ NỘI VỤ TRONG DOANH TRẠI

2.2.1.  Hệ thống biển, bảng

+ Doanh trại đóng quân phải có các loại biển tên, các loại bảng thống nhất từ cổng doanh trại đến từng loại nhà (nhà ở, nhà làm việc, nhà học tập, nhà ăn...).

+ Bộ Tổng tham mưu quy định thống nhất kích thước, quy cách, vị trí treo của các loại biển, bảng. - Nhà ngủ.

 + Nhà ngủ là nơi ở và sinh hoạt hàng ngày ngoài giờ làm việc, huấn luyện của quân nhân trong thời gian tại ngũ.

+ Nhà ngủ phải thoáng mát, hợp vệ sinh, có biện pháp chống nóng, chống rét, chống dột. Sắp xếp nhà ngủ cho phân đội, phòng ngủ cho từng quân nhân phải theo tiêu chuẩn thống nhất quy định cho từng đối tượng.

+ Trong phòng ngủ của hạ sĩ quan phải có đủ giường nằm và đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt. Việc sắp xếp trong phòng ngủ phải căn cứ tình hình thực tế để quy định thống nhất, gọn gàng, thuận tiện.

+ Bố trí nhà ở của bộ đội phải có dây phơi quần áo, dây phơi khăn mặt, dây mắc màn, giá để ba lô, mũ, giá để giày, dép, giá (tủ) súng...

+ Các loại bảng, biển theo quy định của Bộ Tổng tham mưu và phải thống nhất cho từng loại nhà.

+ Giường phải kê thẳng hàng, có biển tên quân nhân, có lối ra vào thuận tiện. Vũ khí, trang bị cá nhân phải để trên giá súng hoặc trong tủ súng, đặt ở nơi quy định, thuận tiện cho bảo quản và sử dụng.

 + Tại vị trí để súng có biển tên và số súng của quân nhân giữ súng; vũ khí, khí tài mang vác tập thể phải để đúng nơi quy định. Nơi ngủ của sĩ quan được bố trí riêng, đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt phải sắp xếp gọn gàng, trật tự.

+ Nhà học tập, làm việc; trong doanh trại phải có nhà làm việc của chỉ huy, của cơ quan và nhà học tập của từng đơn vị. Cơ quan từ cấp trung đoàn trở lên phải có nhà làm việc riêng.

+ Nhà ăn, nhà bếp; phải bố trí nơi cao ráo, hợp vệ sinh, tiện nguồn nước. Phải sắp xếp trật tự, ngăn nắp, sạch sẽ, có biện pháp tích cực phòng chống ruồi, muỗi, côn trùng, dán, chuột, mối, mọt và các loại côn trùng khác gây bệnh.

+ Ánh sáng ban đêm: trong doanh trại phải có ánh sáng ban đêm, bảo đảm cho sinh hoạt, học tập của quân nhân. Phải có đủ đèn cho nhà ngủ, nhà làm việc, nơi sinh hoạt công cộng; nhà trực ban, nhà của đội canh phòng và những nơi cần thiết phải duy trì ánh sáng trong đêm. Mọi quân nhân phải có trách nhiệm bảo vệ và sử dụng tiết kiệm phương tiện và nguồn ánh sáng trong doanh trại. Cấm tự tiện móc nối lấy điện sử dụng riêng ngoài quy định chung của đơn vị.

2.1.2. Tiếp khách

+ Quân nhân có người nhà, bạn bè đến thăm phải báo cáo người chỉ huy trực tiếp và được đón tiếp ở nơi quy định, không được đưa vào doanh trại. Không tiếp người nhà, bạn bè trong giờ làm việc. Trường hợp cần thiết phải được phép của người chỉ huy. + Cấp trên trực tiếp của quân nhân có khách đến thăm phải:

+ Kịp thời thông báo cho quân nhân biết và tạo điều kiện cho quân nhân sớm được gặp khách.

 + Tự mình hoặc cử cán bộ ra thăm hỏi gia đình, người thân của quân nhân thuộc quyền.

+ Đảm bảo những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu để quân nhân tiếp người nhà, bạn bè đến thăm chu đáo, thân tình.

+ Cán bộ, nhân viên ở trạm đón tiếp khách phải vui vẻ chu đáo, nhanh chóng thu xếp nơi ăn, ở, sinh hoạt cho khách; phổ biến tiêu chuẩn, chế độ, thủ tục, nội quy nhà khách và hướng dẫn khách thực hiện.

+ Khi khách rời khỏi trạm phải thanh toán đầy đủ, thu lại những đồ dùng sinh hoạt đã cho mượn, giải quyết chu đáo mọi việc cần thiết khác.

  1. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN HỌC GDQP&AN

- Mỗi sinh viên luôn tự giác, tích cực học tập, hiểu rõ vị trí tầm quan trọng việc thực hiện các chế độ nề nếp chính quy được vận dụng thực hiện ở Trung tâm GDQP&AN theo Điều lệnh quản lý bộ đội.

- Luôn đề cao trách nhiệm, ý thức tự giác, tinh thần làm chủ tập thể chấp hành nghiêm các chế độ quy định. Đây chính là tự rèn luyện cho bản thân về tính tổ chức, tính kỷ luật và tính khoa học.

- Tham gia học tập, sinh hoạt đầy đủ, đúng giờ. Khi được phân công thực hiện các nhiệm vụ trực ban, trực nhật hoặc các nhiệm vụ khác phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng chức trách với tinh thần tự giác cao để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

- Gương mẫu trong việc sắp xếp trật tự nội vụ của bản thân và của phòng ở ký túc xá. Nêu cao ý thức giữ gìn vệ sinh chung để đảm bảo sức khỏe cho mình và mọi người.

 - Nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện chế độ phòng gian, giữ bí mật. Không tùy tiện đăng tải hình ảnh, video, các thông tin về quân sự hoặc các thông tin không đúng liên quan đến các hoạt động GDQP&AN gây ảnh hưởng tới đơn vị.

- Kiên quyết đấu tranh với những nhận thức sai trái, tự do tuỳ tiện, không tự ghép mình vào kỷ luật; thiếu rèn luyện, thiếu cố gắng trong thực hiện các chế độ nền nếp chính quy, hiệu quả học tập và rèn luyện thấp.

KẾT LUẬN

Quản lý bộ đội thực hiện chế độ làm việc, sinh hoạt, học tập và công tác là hoạt động của người chỉ huy phân đội được tiến hành thường xuyên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Học tập nghiên cứu hiểu rõ ý nghĩa, nắm chắc nội dung, biện pháp quản lý bộ đội thực hiện chế độ làm việc, sinh hoạt, học tập và công tác là trách nhiệm của người chỉ huy.

Quản lý, chỉ huy đơn vị thực hiện thống nhất góp phần xây dựng đơn vị có nền nếp chính quy, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao

 

Bài 3: Hiểu biết chung về các quân, binh chủng trong quân đội

MỞ ĐẦU

Quân đội nhân dân Việt nam là Quân đội đội của dân, do dân và vì dân, có lịch sử xây dựng, chiến đấu và chiến thắng oanh liệt, một quân đội do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và giáo dục. Quân đội nhân dân Việt Nam luôn được nhân dân tin yêu và khen tặng danh hiệu cao quí Bộ đội Cụ Hồ. Quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành một hiện tượng lịch sử Việt Nam hiện đại, một đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học quân sự, lịch sử quân sự, của khoa học xã hội và nhân văn.

Từ ngày thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta đã cùng toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước, đưa đất nước bước vào thời kỳ xây dựng và bào vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, giới thiệu chung về quân, binh chủng trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng góp phần phục vụ cán bộ, chiến sĩ các đơn vị và nhà trường học tập truyền thống, kinh nghiệm của đơn vị mình hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Nội dung bài giảng chủ yếu trình bài những kiến thức cơ bản về hiểu biết chung về quân, binh chủng trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Căn cứ biên soạn:

  • Chương trình huấn luyện cơ bản cho sĩ quan biệt phái/TQSQK7/năm 2017.
  • Tài liệu:
  • Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam/BQP/Nxb QĐND/năm 2004.
  • Hỏi đáp về các binh chủng/BTTM/Nxb QĐND/năm 2009.
  • Hỏi đáp về các quân chủng/BTTM/Nxb QĐND/năm 2009

   Tạp chí quân huấn, Thông tin khoa học quân sự QK7, tạp chí nghệ thuật quân sự VN, Tạp chí quốc phòng toàn dân và các tài liệu khác có liên quan.

  1. TỔ CHỨC VÀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
  2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
  3. Khái niệm

Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân đội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt Nam, đặt dưới sự lảnh đạo tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, thuộc quyền thống lĩnh của chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và chỉ huy điều hành của bộ trưởng Bộ Quốc phòng, một quân đội kiểu mới, Quân đội của dân do chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện, lực lượng nồng cốt của LLVT nhân dân Việt Nam trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, có mục tiêu chiến đấu nhất quán vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân

  1. Thành phần cơ cấu quân đội nhân dân Việt Nam

QĐND bao gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, các quân chủng LQ, HQ, PK-KQ. Lục quân không tổ chức thành quân chủng độc lập mà gồm các quân đoàn binh chủng hợp thành, các binh chủng: pháo binh, tăng thiết giáp, đặc công, công binh, hóa học, thông tin. Trên các hướng chiến lược tổ chức các quân khu có các đơn vị chủ lực thuộc QK và các đơn vị bộ đội địa phương trên địa bàn QK (tỉnh, huyện), hệ thống các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, các học viện viện nghiên cứu, trường đào tạo sĩ quan, trường nghiệp vụ các cấp, các xí nghiệp quốc phòng, các binh đoàn làm kinh tế. Giúp Bộ trưởng BQP có các cơ quan BTTM, TCCT, TCHC, TCKT, TCCNQP, Tổng cục IIvà các tổ chức trực thuộc khác…Lực lượng trên được tổ chức theo một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, nghiêm ngặt từ toàn quân đến cơ sở.

Từ khi thành lập đến nay quân đội ta đã giành thắng lợi vĩ đại, lập nên nhiều chiên công oanh liệt, đó là những mốc lịch sử đánh dấu bước đường lớn mạnh và trưởng thành nhanh chóng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quân đội nhân dân Việt Nam đang tập trung xây dựng về mọi mặt theo hướng cách mạng, chính qui tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Trong cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ, khó khăn chống lại những đội quân xâm lược lớn và hiện đại của CNĐQ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát huy bản chất của quân đội cách mạng, trung thành vô hạn với tổ quốc, với nhân dân, với Đảng cộng sản Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác và sản xuất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, dân chủ rộng rải, kĩ luật tự giác nghiêm minh. Bản chất dó được phát huy trong thực tế chiến đấu và xây dựng đã tạo nên truyền thống “trung với Đảng, hiếu với dân, sản sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào củng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nhân dân Việt Nam đã ghi nhận và khen ngợi bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam bằng danh hiệu cao quý bộ đội cụ Hồ.

  1. HỆ THỐNG TỔ CHỨC TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
  2. Hệ thống tổ chức trong quân đội nhân dân Việt Nam

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ chính trị của quân đội. Phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nứơc. Truyền thống tổ chức quân đội của dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử ( mỗi giai đoạn lịch sử có quy mô, tổ chức quân đội khác nhau).

  • Nhìn tổng quát, tổ chức QĐND Việt Nam bao gồm:

Bộ quốc phòng và các cơ quan bộ quốc phòng, các đơn vị trực thuộc bộ quốc phòng. Ơ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các bộ chỉ huy quân sự, ban chỉ huy (tỉnh đội, huyện đội…).

  1. Hệ thống tổ chức Bộ Quốc Phòng


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CHÍNH CỦA MỘT SỐ CƠ QUAN, ĐƠN VỊ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

  1. Bộ quốc phòng

Là cơ quan lãnh đạo, chỉ huy, quản lí cao nhất của toàn quân.

  1. Bộ tổng tham mưu và cơ quan tham mưu các cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam

Là cơ quan chỉ huy các lực lượng vũ trang, có chức năng bảo đảm trình độ SSCĐ của LLVT và điều hành mọi hoạt động quân sự Quốc phòng trong thời bình và thời chiến.

  1. Tổng cục chính trị và cơ quan chính trị các cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam

Là cơ quan đảm nhiệm CTĐ-CTCT trong QĐND, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp thường xuyên của bộ chính trị, Quân ủy trung ương, các cấp ủy đảng cùng cấp.

Nhiệm vụ: CTCT và cơ quan chính trị các cấp căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của Đảng, sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên, đề xuất những chủ trương, giải pháp, kế hoạch CTĐ-CTCT của toàn dân, của từng đơn vị, các tổ chức. Tiến hành và thực hiện tốt CTĐ-CTCT bảo đảm cho quân đội thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao.

  1. Tổng cục hậu cần và cơ quan hậu cần các cấp

Là cơ quan tham mưu bảo đảm về mặt hậu cần của toàn quân và từng đơn vị. Nhiệm vụ: TCHC, cơ quan hậu cần các cấp, nghiên cứu đề xuất các vấn đề liên quan đến tổ chức lực lượng, chỉ đạo công tác bảo đảm hậu cần cho nền QPTD, quân đội, LLVT cả trong thời bình và thời chiến. Trực tiếp tổ chức, chỉ đạobảo đảm hậu cần cho bộ đội, tăng gia sản xuất, tạo nguồn và nghiên cứu khoa học, khai thác, sử dụng vật tư trang bị…

Tổng cục kĩ thuật và cơ quan kĩ thuật các cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam

Là cơ quan đảm bảo trang bị kĩ thuật, phương tiện kỷ thuật phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu cho toàn quân và từng đơn vị.

Tổng cục công nghiệp quốc phòng, các cơ quan, đơn vị sản xuất quốc phòng

Là cơ quan, đơn vị chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ sản xuất quốc phòng.

Chức năng nhiệm vụ: Nghiên cứu, đề xuất các vấn đế có liên quan đến tổ chức, chỉ đạo công tác công nghiệp QPTD và CTND. Trực tiếp tổ chức chỉ đạo sản xuất, tạo nguồn bảo đảm cho sản xuất của ngành CNQP trong quân đội. Tổ chức chỉ đạo nghiên cứu khoa học và huấn luyện bộ đội về CNQP.

  1. Quân khu

Là tổ chức quân sự theo địa giới hành chính một số tỉnh, thành giáp nhau, có liên quan với nhau về quân sự, quốc phòng.

  1. Quân đoàn

Là lực lượng thường trực của quân đội, là đơn vị tác chiến chiến dịch, lực lượng thường từ 3-4 sư đoàn bộ binh và một số lữ đoàn, trung đoàn binh chủng, bảo đảm.

  1. Quân chủng

Quân chủng là bộ phận phân loại cơ bản của quân đội, gồm có lục quân, hải quân, phòng không-không quân; mỗi bộ phận được rèn luyện chiến đấu ở một môi trường địa lý nhất định (trên bộ, trên biển hoặc trên không).

Là lực lượng quân đội được tổ chức, biên chế, trang bị, huấn luyện, theo đặc trưng chức năng, nhiệm vụ và phương thức tác chiến riêng. Hiện nay ta có quân chủng hải quân, lục quân và phòng không-không quân.

  1. Bộ đội biên phòng

Là một phận của QĐND Việt Nam. Chức năng chủ yếu là quản lý nhà nước đối với biên giới quốc gia, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, lợi ích quốc gia, giữ gìn an ninh biên giới, vùng biển đảo của tổ quốc.

  1. Binh chủng trong quân đội nhân dân Việt Nam

Binh chủng là bộ phận trong quân chủng, được phân loại theo trang bị vũ khí và chức năng tác chiến khác nhau. Ví dụ, trong quân chủng lục quân Việt Nam có các binh chủng bộ binh, pháo binh, đặc công,…

Là những ngành chuyên môn chiến đấu và bảo đảm chiến đấu cho quân đội.

  1. Cảnh sát biển Việt Nam một số tài liệu còn viết là Tuần duyên Việt Nam

Là lực lượng quân sự chuyên trách thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên trên các vùng biển và thềm lục địa của nước này.

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUÂN  CHỦNG, QUÂN KHU, QUÂN ĐOÀN, BINH CHỦNG

  1. QUÂN CHỦNG LỤC QUÂN
  2. Những vấn đề chung về Lục Quân

Lục quân Việt Nam không tổ chức thành bộ tư lệnh riêng mà đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị; sự chỉ đạo chuyên ngành của các tổng cục và cơ quan chức năng khác. Khi mới thành lập, Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có lục quân với bộ binh là chính. Qua quá trình xây dựng, Lục quân đã từng bước phát triển cả về quy mô tổ chức và lực lượng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Lục quân có 07 quân khu (1, 2, 3, 4, 5, 7, 9) và Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội; 06 binh chủng (gồm Pháo binh, Tăng - Thiết giáp, Công binh, Thông tin, Hoá học, Đặc công); 04 quân đoàn (1, 2, 3, 4). Các quân khu, quân đoàn, binh chủng có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị trực thuộc khác. Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược và theo địa bàn. Quân khu có các sư đoàn và trung đoàn chủ lực trực thuộc. Quân khu chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Quân đoàn là đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân, được bố trí để bảo vệ các địa bàn chiến lược trọng yếu của quốc gia, Quân đoàn có các sư đoàn và các đơn vị trực thuộc. Các binh chủng tham gia tác chiến hợp đồng quân binh chủng theo phân công đồng thời thực hiện chức năng bảo đảm kỹ thuật và huấn luyện, đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật theo các chuyên ngành cho toàn quân. Các binh chủng có các đơn vị chiến đấu trực thuộc, các trường sĩ quan và trường kỹ thuật theo chuyên ngành.

  1. Giới thiệu chung về các binh chủng của Lục Quân

Lục quân là một quân chủng trong quân đội hoạt động chủ yếu trên mặt đất, thường có số quân đông nhất, có trang bị và phương thức tác chiến đa dạng, phong phú. Là lực lượng chính quyết định kết cục của chiến tranh.

Bộ binh: lực lượng chủ yếu của lục quân, được trang bị nhẹ để tác chiến trên bộ; đảm nhiệm chức năng chủ yếu là tiêu diệt đối phương, đánh chiếm trận địa của chúng và giữ vững trận địa của mình. Là binh chủng cổ nhất trong lịch sử và thường là binh chủng đầu tiên được xây dựng trong các quân đội. Từ giữa thế kỉ 20, phần lớn các nước công nghiệp có xu hướng phát triển BB thành BB cơ giới Bộ binh cơ giới: bộ binh được trang bị xe chiến đấu bọc thép để cơ động và chiến đấu, có thể thực hành chiến đấu ngay trên xe hoặc với đội hình đi bộ. So với bộ binh, BBCG được trang bị hoả lực mạnh hơn và có sức cơ động cao hơn.

  1. a) Pháo binh: Lực lượng hỏa lực chủ yếu của lục quân, thường được trang bị các loại pháo, tên lửa và súng cối, dùng để sát thương, tiêu diệt các mục tiêu và trực tiếp chi viện hỏa lực cho các lực lượng tác chiến trên mặt đất, mặt nước, có thể chiến đấu hiệp đồng hoặc độc lập.
  2. b) Tăng - thiết giáp: Chịu trách nhiệm tác chiến đột kích trên bộ và đổ bộ (hải quân), được trang bị các loại xe tăng, xe thiết giáp, với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao. c) Đặc công: Một lực lượng đặc biệt tinh nhuệ được tổ chức, trang bị và huấn luyện đặc biệt, có phương pháp tác chiến linh hoạt, táo bạo, bất ngờ, thường dùng để đánh các mục tiêu hiểm yếu nằm sâu trong đội hình chiến đấu, bố trí chiến dịch và hậu phương của địch.
  3. d) Công binh: Có chuyên môn kỹ thuật với chức năng bảo đảm công binh trong chiến đấu và xây dựng, có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí công binh.

đ) Thông tin liên lạc: Có chức năng bảo đảm thông tin liên lạc cho hệ thống chỉ huy trong toàn quân.

  1. e) Hóa học: Một binh chủng chuyên môn kỹ thuật, có chức năng bảo đảm hóa học cho tác chiến, làm nòng cốt trong việc phòng chống vũ khí hủy diệt lớn, ngụy trang bảo vệ các mục tiêu quan trọng của quân đội, nghi binh đánh lừa địch bằng màn khói. Bộ đội Hóa học còn có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí bộ binh và súng phun lửa.

Như thế, lục quân và bộ binh hoàn toàn khác nhau. Lục quân là một quân chủng trong quân đội. Bộ binh là một binh chủng chủ yếu của quân chủng Lục quân, gồm những người lính chiến đấu chủ yếu ở trên bộ, được trang bị các loại vũ khí nhỏ (súng trường, súng lục, lựu đạn...), mặc dù họ có thể được đưa đến chiến trường bằng ngựa, tàu thuyền, ô-tô, máy bay hay các phương tiện khác.

  1. Giới thiệu chung về các Quân khu và Bộ tư lệnh Thủ đô
  2. a) Quân khu 1

Trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm ở vị trí địachính trị chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh và đối ngoại trong thế bố trí chung của cả nước,bảo vệ vùng Đông Bắc gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh. Có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang 3 thứ quân; thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chú trọng nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc; tích cực tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư lệnh kiêm Chính uỷ đầu tiên của Quân khu là đồng chí Đàm Quang Trung.

Hiện nay, Quân khu 1 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 1 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu, Ngày truyền thống: 16-10-1945

Truyền thống vẻ vang: “TRUNG HIẾU, TIÊN PHONG, ĐOÀN KẾT, CHIẾN THẮNG”

Phần thưởng cao quý: Với những thành tích đặc biệt xuất sắc qua các thời kỳ, Lực lượng vũ trang Quân khu 1 đã được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 03 Huân chương Độc lập, 10 Huân chương Quân công, hàng nghìn lượt tập thể đơn vị, hàng vạn cá nhân được thưởng Huân chương Chiến công các hạng; 346 đơn vị và 206 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến, 06 đơn vị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới (lực lượng vũ trang huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; lực lượng vũ trang và nhân dân xã Thị Hoa, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng; Trung đoàn Xe tăng 409; Lữ đoàn Công binh 575; Lữ đoàn Pháo binh 382; Tiểu đoàn Hoá học 23/ Bộ Tham mưu); 916 Mẹ Việt Nam Anh hùng và nhiều phần thưởng cao quý khác của bạn bè quốc tế.

  1. b) Quân khu 2

Quân khu 2 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm ở vị trí địa - chính trị chiến lược bảo vệ vùng Tây Bắc gồm 9 tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà giang, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc. Có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 2 là các đồng chí Bằng Giang, Bùi Quang Tạo.

Hiện nay, Quân khu 2 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 2 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 19-10-1946 Truyền thống vẻ vang:

“TRUNG THÀNH, TỰ LỰC, ĐOÀN KẾT, ANH DŨNG, CHIẾN ĐẤU”

  1. c) Quân khu 3

Quân khu 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng, nằm ở vị trí địa - chính trị chiến lược bảo vệ vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 9 tỉnh: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Hòa Bình.Có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 3 là các đồng chí Hoàng Sâm, Trần Độ.Hiện nay, Quân khu 3 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 3 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu. Ngày truyền thống: 31-10-1945. Truyền thống vẻ vang:

“ĐOÀN KẾT, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO, HY SINH, CHIẾN THẮNG”

  1. d) Quân khu 4

Quân khu 4 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm trên một địa bàn chiến lược trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý và tổ chức lực lượng vũ trang quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15/10/1945 Chiến khu 4 được thành lập gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và ngày này trở thành Ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu

  • Ngày 03/6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 17/SL về việc thành lập Quân khu 4 trên cơ sở Liên khu 4.

Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 4 là các đồng chí Nguyễn Đôn, Chu Huy Mân.

Hiện nay, Quân khu 4 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 4 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 15-10-1945

đ) Quân khu 5

Quân khu 5 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, hiện nay có chức năng nhiệm vụ cơ bản là tổ chức, xây dựng, quản lí và chỉ huy lực lượng vũ trang thuộc Quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Nam Trung Bộ, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân ở địa phương trên địa bàn. Địa bàn Quân khu 5 bắt đầu từ đèo Hải Vân đến cực nam tỉnh Ninh Thuận,bảo vệ vùng Nam Trung Bộgồm 11 tỉnh thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông. Tổ chức hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh; Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc. Ngày truyền thống: 16-10-1945 Truyền thống vẻ vang: “TỰ LỰC TỰ CƯỜNG, KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, CHỊU ĐỰNG GIAN KHỔ, MƯU TRÍ SÁNG TẠO, CHIẾN ĐẤU KIÊN CƯỜNG, CHIẾN THẮNG VẺ VANG”.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và 35 năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã có 162.768 liệt sỹ hy sinh vì sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc, hơn 100 nghìn thương, bệnh binh, 13.772 Mẹ Việt Nam Anh hùng. Với những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:

Huân chương Sao vàng (1985); 898 tập thể và 392 cá nhân và được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có: Trung đoàn Ba Gia - đơn vị được 3 lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Trung đoàn Ba Gia và các đơn vị được 2 lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Sư đoàn 2; Trung đoàn 95; Trung đoàn 812; Tiểu đoàn 840/Trung đoàn 812; Đại đội Công binh Hải Vân/Quảng Đà; Đại đội 2/Trung đoàn 66; Đại đội 5/26/Đoàn 5504; Lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương huyện Duy Xuyên và (Quảng Nam); Lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương huyện Đại Lộc (Quảng Nam); xã Tịnh Khê (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi); xã Hoà Hải (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng).

Trong thời kỳ đổi mới, lực lượng vũ trang Quân khu 5 có 5 tập thể vinh dự được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Đại Lộc/Quảng Nam, Lữ đoàn công binh 270, Viện Quân y 13, Trung đoàn Pháo binh 368 và Binh đoàn 15), 1 cá nhân được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lao động; 25 tập thể được tặng Cờ Thủ tướng Chính phủ; 85 tập thể và 35 cá nhân được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 68 tập thể được tặng Cờ Thi đua Bộ Quốc phòng; 542 tập thể và cá nhân được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen và các hình thức khen thưởng khác.

  1. e) Quân khu 7

Quân khu 7 là tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ, được thành lập ngày 10/12/1945, bao gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Tây Ninh. nằm trên một địa bàn chiến lược trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, bảo vệ vùng Đông Nam BộNay gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, Long An và Tây Ninh.

Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang Quân khu 7 vừa xây dựng vừa chiến đấu, từ trong muôn vàn thiếu thốn, gian khổ hy sinh, đã sáng tạo ra những cách đánh hết sức độc đáo, có hiệu quả, lập nên nhiều chiến công xuất sắc ở cả ba vùng đô thị, đồng bằng và rừng núi, góp phần làm chuyển đổi cục diện chiến trường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch, cùng quân và dân cả nước làm nên trận Điện Biên Phủ và cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc, lực lượng vũ trang Quân khu 7 thực hành quân quản, sắp xếp lại lực lượng, khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng chế độ xã hội mới: Vừa đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại của địch, xây dựng tiềm lực quân sự - quốc phòng, vừa kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ Quốc tế xây dựng và bảo vệ đất nước Campuchia, góp phần đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Trong bối cảnh lịch sử mới, lực lượng vũ tranh Quân khu 7 tập trung xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, ra sức huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trải qua hơn 60 năm, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng vũ trang Quân khu 7 được tặng thưởng: 02 Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 01 Huân chương Quân công hạng nhất và 340 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thành phố Hồ Chí Minh và hầu hết các tỉnh của Quân khu 7 đều được tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Lực lượng vũ trang Quân khu 7 luôn chú trọng việc quán triệt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ quốc phòng, vận dụng linh hoạt sáng tạo đường lối quân sự, đường lối ngoại giao, thống nhất ý chí và hành động, khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Kế thừa và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà ông, cha đã dày công vun đắp, phấp đấu xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 7 ngày càng lớn mạnh, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang: “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng” lực lượng vũ trang Quân khu 7 mãi mãi xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

  1. f) Quân khu 9

Quân khu 9 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt nam nằm trên một địa bàn chiến lược trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, bảo vệ vùng Đồng bằng Sông Cửu long gồm 12 tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Hậu Giang, Kiên giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Có nhiệm vụ quản lý, tổ chức, xây dựng và chỉ huy quân đội chiến đấu bảo vệ vùng Đồng bằng Sông Cửu long Việt Nam. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 9 là các đồng chí Nguyễn Thành Thơ, Nguyễn Văn Bé.

Hiện nay, Quân khu 9 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 9 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 10-12-1945

  1. g) Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội: Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng, lực lượng vũ trang (LLVT) Thủ đô Hà Nội là một bộ phận quan trọng của LLVT nhân dân Việt Nam đã kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm của Thủ đô Hà Nội, truyền thống “Ngàn năm văn hiến Thăng Long-Hà Nội” cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô viết nên trang sử hào hùng, góp phần làm rạng danh non sông đất nước.

Trước và trong cách mạng tháng Tám, các đội tiền thân của LLVT Thủ đô xung kích đi đầu, làm nòng cốt cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện khi thời cơ đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, góp phần quyết định thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, giành độc lập tự do cho dân tộc, mang lại quyền làm chủ cho nhân dân Việt Nam. LLVT Thủ đô Hà Nội đã cùng các tầng lớp nhân dân kiên quyết đấu tranh đập tan hoạt động chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam thoát ra khỏi tình thế ngàn cân treo sợi tóc.

Sau khi được thành lập, ngày 19-12-1946 hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chấp hành quyết định của Thường vụ Trung ương Đảng, quân và dân Chiến khu XI với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã nổ súng mở đầu cho toàn quốc kháng chiến. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, quân và dân Thủ đô nói riêng mãi mãi lưu truyền cuộc chiến đấu 60 ngày đêm, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, vượt chỉ tiêu Trung ương giao, bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian thực hiện công việc kháng chiến lâu dài. Suốt chặng đường kháng chiến chống thực dân Pháp, LLVT Thủ đô Hà Nội đã kiên trì trụ vững bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở, dựa vào dân chiến đấu và lập được nhiều chiến công vẻ vang. Nhiều trận đánh tiêu biểu, hiệu quả để lại kinh nghiệm quý cho chiến tranh nhân dân, góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Các địa phương thuộc tỉnh Hà Đông và Sơn Tây là địa bàn hoạt động của các đơn vị LLVT Mặt trận Hà Nội, nhiều địa phương được xây dựng thành căn cứ kháng chiến và căn cứ của Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, hai tỉnh cung cấp nhiều nhất cho Hà Nội lương thực, thực phẩm…

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa sản xuất, vừa tăng cường chi viện cho chiến trường, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ với lực lượng phòng không, không quân quốc gia đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc, đỉnh cao là cuộc chiến đấu 12 ngày đêm cuối tháng Chạp năm 1972, lập nên kỳ tích của thế kỷ XX Hà Nội “Điện Biên Phủ trên không” để trở thành “Thủ đô lương tri và phẩm giá con người”.

Thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, LLVT Thủ đô luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, vượt mọi khó khăn, vừa tăng cường chi viện cho các mặt trận bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế, vừa là lực lượng nòng cốt góp phần cùng các tấng lớp nhân dân Thủ đô làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, bảo vệ, kiến thiết Thủ đô ngày càng văn minh, hiện đại.

Trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô Hà Nội lập nên những chiến công oanh liệt, viết nên những trang sử hào hùng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Sự hy sinh, cống hiến cùng những chiến công của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã hun đúc nên giá trị tiêu biểu, đặc sắc như lời Bác Hồ khen “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thương yêu đùm bọc giúp đỡ của nhân dân, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô đã không ngại gian khổ hy sinh ra sức phấn đấu xây dựng và vun đắp nên truyền thống Anh hùng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của LLVT Thủ đô là vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô hôm nay.

Ngày truyền thống: Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, ngày 19/10/1946, Chiến khu XI - Tổ chức hành chính quân sự thống nhất của các LLVT Thủ đô Hà Nội được thành lập. Chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Ngày 25/7/1947 trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, Trung ương ra quyết định địa bàn hoạt động của Chiến khu XI được mở rộng bao gồm: Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Qua Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng của Chiến khu XI đã mang đầy đủ tính chất chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội ngày nay. Vì vậy, ngày 19/10/1946 là ngày truyền thống của LLVT Thủ đô Hà Nội theo Quyết định số 1850/QĐ-QP ngày 31/5/2010 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

  1. Giới thiệu chung về các Quân đoàn

Quân đội nhân dân Việt Nam có các Quân đoàn 1, 2, 3 và 4. Mỗi quân đoàn có 3-5 sư đoàn bộ binh và các đơn vị thiết giáp, công binh, pháo binh, phòng không, thông tin, hóa học...

  1. a) Quân đoàn 1 : “Thần tốc - Quyết thắng”

Là quân đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 24/10/1973. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn 1 là các đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hoà. Quân đoàn 1 hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ, Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị trực thuộc khác.

Trước diễn biến trên chiến trường và trước các điều kiện khách quan và chủ quan, vấn đề xây dựng các quân đoàn, binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, hoả lực mạnh, sức đột kích lớn, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trở thành yêu cầu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của quân đội ta. Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất nước, tháng 10/1973 Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị thành lập các quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 24/10/1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định số 124/QĐ-QP thành lập Quân đoàn 1.

Ngay sau khi thành lập, trong điều kiện vừa ổn định tổ chức biên chế, vừa huấn luyện và xây dựng, chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật, Quân đoàn 1 đã khẩn trương xây dựng Quân đoàn thành một Binh đoàn chủ lực, cơ động chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam: có khả năng chiến đấu cao, cơ động lớn, đột kích mạnh, có khả năng tác chiến tập trung hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn.

Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 1 vừa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương chiến lược của cả nước, vừa chủ động khắc phục những khó khăn to lớn về cơ động, về hậu cần - kỹ thuật và chuẩn bị chiến trường, đã tổ chức cuộc hành quân “thần tốc” chưa từng có trong lịch sử quân đội ta từ Bắc vào Nam chỉ trong 11 ngày đêm đã vượt chặng đường dài hơn 1.700 km, kịp thời vào trực tiếp tham gia chiến đấu trên hướng Bắc Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Nhạy bén với tình hình, biết chủ động nắm và chớp thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, vận dụng sáng tạo cách đánh, nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng, phù hợp với thực tiễn chiến trường, với lối đánh “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Quân đoàn đã kiên quyết tiến công, táo bạo bất ngờ đánh chiếm những mục tiêu quan trọng có tính chiến lược trong hệ thống phòng thủ của địch trên hướng Bắc Sài Gòn; tiêu diệt và bức hàng hoàn toàn Sư đoàn 5 ngụy giải phóng tỉnh Bình Dương; táo bạo thọc sâu đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu-cơ quan đầu não của Quân nguỵ Sài Gòn, Quận lỵ Gò Vấp, Tiểu khu Gia Định, góp phần quan trọng giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng nên truyền thống vẻ vang “Thần tốc-Quyết thắng” của Quân đoàn.

Ngay sau ngày đất nước được giải phóng, trước yêu cầu khẩn trương của sự nghiệp cách mạng, Quân đoàn 1 lại một lần nữa thực hiện cuộc hành quân “Thần tốc” từ miền Nam trở về miền Bắc làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, cơ động dự bị chiến lược của Bộ. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên các vùng biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, Quân đoàn 1 vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện lực lượng tăng cường cho các đơn vị chiến đấu ở tuyến trước, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu phòng ngự thay phiên, giữ vững một vùng biên cương Tổ quốc, góp phần quan trọng cùng quân và dân cả nước đánh thắng quân xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, trước yêu cầu nhiệm vụ mới, các đơn vị của Quân đoàn 1 được trang bị thêm nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại; tổ chức nhiều cuộc diễn tập chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng phục vụ công tác nghiên cứu khoa học - nghệ thuật quân sự hoặc “làm mẫu” thực nghiệm cho toàn quân huấn luyện chiến đấu.

Ngày truyền thống: 24-10-1973. Với những chiến công và thành tích xuất sắc trong chiến đấu bảo vệ và xây dựng đất nước, Quân đoàn 1 đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (29/8/1985).

  1. b) Quân đoàn 2: “Thần tốc, táo bạo, quyết thắng”

Quân đoàn 2 là quân đoàn chủ lực cơ động của QĐND Việt Nam, được thành lập ngày 17/5/1974, tại Trị - Thiên. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn là các đồng chí Hoàng Văn Thái, Lê Linh. Quân đoàn 2 hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ, Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị trực thuộc khác.

Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất nước, tháng 10/1973 Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị thành lập các quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo đó, ngày 17/5/1974, Quân đoàn 2 được thành lập tại Ba Nang-Ba Lòng-Quảng Trị.

Sự ra đời của Quân đoàn 2 thể hiện sinh động quy luật về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn là tham gia tổ chức các chiến dịch quy mô bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, thực hiện những đòn tiêu diệt lớn lực lượng địch, phối hợp với các lực lượng tại chỗ và phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân giải phóng hoàn toàn miền Nam. Để thực hiện nhiệm vụ này, yêu cầu đặt ra đối với Quân đoàn là phải xây dựng sức mạnh chiến đấu tổng hợp, sức đột kích mạnh, tính cơ động cao, thành thạo tác chiến tập trung hiệp đồng quân, binh chủng.

Sau khi thành lập, quân đoàn đã mở các cuộc tiến công đầu tiên thắng lợi ở Thượng Đức, La Sơn - Mỏ Tàu, mở rộng các vùng giải phóng, đánh bại cuộc phản công của Sư đoàn Dù - con át chủ bài của lực lượng tổng dự bị chiến lược của Quân đội Sài Gòn, góp phần để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng có thêm căn cứ thực tế khi phân tích tình hình, đánh giá so sánh lực lượng địch - ta và hạ quyết tâm chiến lược chính xác.

Đầu năm 1975, Quân đoàn 2 đã đẩy mạnh các hoạt động phối hợp chiến trường và tác chiến tạo thế ở Nam Thừa Thiên. Khi thời cơ xuất hiện, cùng với các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5, Quân đoàn đã tiến công liên tục tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 1, Quân khu 1 và Sư đoàn hải quân đánh bộ của Quân đội VNCH Sài Gòn, góp phần quyết định thực hiện thắng lợi Chiến dịch Trị - Thiên - Huế, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng.

Để phát triển ưu thế chiến lược có lợi cho ta trên toàn bộ chiến trường miền Nam, theo Mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn 2 đã tổ chức và thực hiện xuất sắc cuộc hành quân thần tốc trong 18 ngày đêm, tiến công địch trong hành tiến dọc duyên hải miền Trung, góp phần quyết định tiến công đập tan lực lượng, và các tuyến phòng ngự của Địch ở Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, giải phóng các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy, khu vực phòng thủ từ xa của Quân VNCH trên hướng Đông, góp phần làmthay đổi cán cân lực lượng gữa ta và địch ở Nam Bộ, mở thông tuyến đường số 1 kéo dài từ miền Bắc tới tận cửa ngõ phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn, mở thêm một tuyến đường tiếp tế hậu cần chiến lược, tạo một thế trận chung thuận lợi cả về chiến lược và chiến dịch.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 2 đã tổ chức đội hình chiến đấu có lực lượng đột kích mạnh gồm xe tăng, pháo binh, pháo phòng không và bộ binh, cùng với quân và dân vùng Đông và Đông Nam Sài Gòn tiến công dũng mãnh, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch phòng ngự trên hướng này, nhanh chóng đưa lực lượng thọc sâu đánh chiếm nhiều mục tiêu quan trọng, Dinh Độc lập, Phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn bắt Tổng thống và toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn; góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Quân đoàn 2 tiếp tục nhận và hoàn thành thắng lợi nhiều nhiệm vụ khác nhau. Đặc biệt trước yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, Quân đoàn đã thực hiện xuất sắc cuộc hành quân thần tốc từ miền Trung vào mặt trận, phối hợp cùng với các đơn vị bạn, Quân đoàn 2 đã liên tục phản công, tiến công địch, góp phần xứng đáng vào chiến công oanh liệt, đánh bại cuộc tiến công xâm lược của địch ở biên giới Tây Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả; giải phóng đất nước Cămpuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, giúp Đảng nhân dân cách mạng Cămpuchia củng cố chính quyền cách mạng cơ sở.

Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đoàn thường xuyên huấn luyện, tổ chức các cuộc diễn tập nghiên cứu, thực nghiệm, kiểm tra với quy mô lớn để từng bước hoàn chỉnh các phương án, hình thức tác chiến mới phù hợp với chiến lược quốc phòng - an ninh của Đảng trong thời kỳ mới; đồng thời nỗ lực xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng với truyền thống “Thần tốc, táo bạo, quyết thắng” trong chiến đấu; “chủ động, tích cực, sáng tạo” trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại, thực sự là “quả đấm thép” chủ lực của Bộ Quốc phòng. Ngày truyền thống: 17-5-1974

Với những thành tích vẻ vang trong chiến đấu, Quân đoàn 2 vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 28/9/1985).

  1. c) Quân đoàn 3

Là quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 26/3/1975. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn 3 là các đồng chí Vũ Lăng, Đặng Vũ Hiệp. Quân đoàn 3 hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ, Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị trực thuộc khác.

Quá trình hình thành và phát triển: Ngay sau khi Tây Nguyên được giải phóng, ngày 26/3/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định số 54/QĐ-QĐ thành lập Quân đoàn 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Quân đoàn 3 được thành lập có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu sự ra đời của quân đoàn chủ lực cơ động thứ 4 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức của Quân đoàn 3 bao gồm: Bộ Tư lệnh, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và các đơn vị trực thuộc. Với thành phần là các đơn vị thuộc khối chủ lực B3 đang trong quá trình phát triển chiến dịch Tây Nguyên, Quân đoàn 3 là một binh đoàn chủ lực binh chủng hợp thành hoàn chỉnh, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, sức cơ động cao, hoả lực mạnh, có trình độ và kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng binh chủng; có thể độc lập tiến hành một chiến dịch hoặc đảm nhiệm hướng chủ yếu trong đội hình chiến dịch lớn của cấp trên, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 3 được giao nhiệm vụ đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu nhất của chiến dịch từ Tây Bắc vào Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã nhanh chóng tổ chức quán triệt nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm chiến đấu, phương án tác chiến, gấp rút điều động lực lượng từ các hướng cơ động về Tây Bắc Sài Gòn tham gia chiến dịch. Phát huy truyền thống “Quyết thắng, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, nghiêm túc, tự lực”, với phương châm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến: “Mạnh bạo, chắc thắng, đánh mạnh, đánh liên tục nắm chắc thời cơ thọc sâu phát triển nhanh”, Quân đoàn 3 đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang địa phương, các cánh quân tiến công Sài Gòn từ các hướng, lần lượt đánh chiếm và làm chủ Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng, Đồng Dù, Hóc Môn, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu quân đội chế độ cũ… hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, Quân đoàn 3 được lệnh nhanh chóng cơ động lực lượng lên Tây Ninh đánh địch. Với phương châm vừa chiến đấu, vừa xây dựng củng cố, quân đoàn đã mở nhiều chiến dịch và các đợt hoạt động, đánh bại quân địch; đồng thời với tinh thần quốc tế cao cả, Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia phát triển, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Tháng 7/1979, Quân đoàn 3 cơ động toàn bộ lực lượng từ Campuchia về nước làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, xây dựng chính quy, củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn chiến lược xung yếu.

Ngày truyền thống: 26-3-1975. Với những chiến công hiển hách trong chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm nghĩa vụ quốc tế, Quân đoàn 3 đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 20/12/1979) và được nhà nước Campuchia tặng thưởng Huân chương Ăngco (năm 1979).

  1. d) Quân đoàn 4

Là quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 20/7/1974. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn 4 là các đồng chí Hoàng Cầm, Hoàng Thế Thiện. Quân đoàn 4 hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ, Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị trực thuộc khác.

Quá trình hình thành và phát triển: Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất nước, tháng 10/1973 Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị thành lập các quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam, ở Nam bộ và Cực Nam Trung Bộ, từ đầu năm 1974 Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ tư lệnh Miền đã chỉ đạo lập phương án tổ chức biên chế, dự thảo chức năng nhiệm vụ của một quân đoàn chủ lực trên chiến trường.

Sau khi thông qua kế hoạch tổ chức biên chế, ngày 20/7/1974, đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục chính thức công bố quyết định thành lập Quân đoàn 4 tại chiến khu Dương Minh Châu, miền Đông Nam Bộ. Với chức năng là quả đấm chủ lực mạnh, lực lượng cơ động của Bộ ở chiến trường B2, nhiệm vụ của Quân đoàn 4 là tiêu diệt quân địch, giải phóng nhân dân, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang 3 thứ quân, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng, đảm nhận một hướng chiến lược, một khu vực chiến trường, mục tiêu cuối cùng là giải phóng Sài Gòn.

Sau khi thành lập, căn cứ vào kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976 và nhiệm vụ chiến đấu trước mắt trong mùa khô 1974 - 1975, Quân uỷ, Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4 mở chiến dịch ở Đường số 14 - Phước Long, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một đoạn đường số 14; tiếp đó đánh bại quân địch nếu chúng phản kích, giữ vững vùng giải phóng. Bằng cách đánh linh hoạt, mưu trí sáng tạo và dũng cảm Quân đoàn đã giành thắng lợi trong chiến dịch Đường số 14-Phước Long, phối hợp với Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Huế-Đà Nẵng theo kế hoạch tác chiến chiến lược, vừa tạo địa bàn đứng chân, tập kết lực lượng và mở các hướng tiến công quan trọng cho các lực lượng bạn đánh vào Sài Gòn. Đây là thắng lợi có ý nghĩa như một đoàn trinh sát chiến lược giúp Bộ Chính trị đưa ra quyết định chính xác quyết tâm giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước trong năm 1975.

Ngày 02/4/1975, tại căn cứ Vĩnh An, Thượng tướng Trần Văn Trà, Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4 triển khai lực lượng trên hai hướng tiến công chiến lược là Đông và Tây Nam Sài Gòn. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Chiến dịch và để tạo điều kiện chiến lược cho Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn với phương châm tác chiến “Đánh thắng, tiến chắc”, ngày 09/4/1975 các lực lượng của Quân đoàn bắt đầu nổ súng tiến công phòng tuyến Xuân Lộc của quân địch.

Sau nhiều lần tiến công quyết liệt, ngày 21-4-1975, Quân đoàn đã đập tan phòng tuyến Xuân Lộc, giải phóng thị xã Xuân Lộc và toàn bộ tỉnh Long Khánh. Với đội hình chiến đấu mạnh, cách đánh linh hoạt, các mũi tiến công của Quân đoàn lần lượt đánh chiếm Trảng Bom, tuyến phòng thủ Hố Nai, khu vực phòng thủ Biên Hoà của địch, phát triển tiến công vào nội thành Sài gòn, cùng với các cánh quân khác kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sau năm 1975 Quân đoàn ngoài làm nhiệm vụ quân quản ở thành phố Sài Gòn Gia Định, tham gia vào bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, làm tốt nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của chế độ Pôn Pốt - Yêngxari; đồng thời, quân đoàn còn giúp xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, xây dựng và củng cố chính quyền mới, góp phần củng cố và thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia anh em.

Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Quân đoàn 4 đang tập trung huấn luyện, nâng cao chất lượng tổng hợp và trình độ sẵn sàng chiến đấu, đảm bảo cho Quân đoàn có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Xây dựng quân đoàn chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh toàn diện, đảm bảo tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, chăm lo cho đời sống bộ đội và tích cực xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương vững mạnh, xứng đáng là quân đoàn cơ động, chủ lực của Bộ đóng ở phía Nam của Tổ quốc, phát huy truyền thống “Trung thành, đoàn kết, anh dũng, sáng tạo, tự lực, quyết thắng”.

Ngày truyền thống: 20-7-1974. Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, Quân đoàn 4 vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1980).

  1. QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN

Quân chủng Hải quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển. Hải quân nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ quản lý và kiểm soát chặt chẽ các vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông; giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển; bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển đảo, theo quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và tham gia tìm kiếm cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công xâm lược trên hướng biển.

Bộ tư lệnh Hải quân chỉ huy toàn bộ lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam. Bộ Tư lệnh có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ, các cơ quan đảm nhiệm các mặt công tác quân sự; công tác đảng, công tác chính trị; kỹ thuật; hậu cần.

Hải quân nhân dân Việt Nam có 5 vùng Hải quân (1, 2, 3, 4, 5) và các đơn vị trực thuộc. Lực lượng chủ yếu của Hải quân nhân dân Việt Nam là các đơn vị tàu mặt nước, pháo - tên lửa bờ biển; hải quân đánh bộ; đặc công hải quân và các đơn vị phòng thủ đảo. Hải quân nhân dân Việt Nam đã được tăng cường lực lượng và phương tiện để làm tốt nhiệm vụ tìm kiếm và cứu nạn.

Trong tương lai, Hải quân nhân dân Việt Nam được tăng cường trang bị vũ khí hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu để có đủ khả năng hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.

Hải quân nhân dân Việt Nam có truyền thống rất vẻ vang, lập công lớn trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ nhất là thành tích chống phong toả đường biển và các nhiệm vụ được giao trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tư lệnh kiêm Chính uỷ đầu tiên của Quân chủng Hải quân là đồng chí Tạ Xuân Thu. Ngày truyền thống: 07-05-1955

  1. Chức năng nhiệm vụ

Quân chủng Hải quân của Quân đội nhân dân Việt Nam còn gọi là Hải quân Nhân dân Việt Nam, là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Quân chủng Hải quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển. Hải quân Nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ quản lý và kiểm soát chặt chẽ các vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông; giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển; bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển đảo, theo quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và tham gia tìm kiếm cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công xâm lược trên hướng biển.

Hải quân Nhân dân Việt Nam có các binh chủng tàu mặt nước, Hải quân đánh bộ, Tên lửa-Pháo bờ biển,Không quân Hải quân, tàu ngầm... nhưng không tổ chức bộ tư lệnh riêng. Bao gồm các cấp đơn vị: hải đoàn, hải đội, binh đoàn Hải quân đánh bộ, các binh đoàn bộ đội chuyên môn, các đơn vị bảo đảm phục vụ ra đa, thông tin, kỹ thuật, hậu cần....

  1. Các binh chủng của quân chủng Hải Quân
  2. a) Hải quân đánh bộ - quả đấm thép

Lính Hải quân đánh bộ còn được gọi là đặc công Hải quân – lực lượng tác chiến đặc biệt tinh nhuệ. Họ đều bơi rất giỏi, trang bị trên người có thể lên đến 40kg hoặc ít hơn tùy nhiệm vụ, chiến đấu như bộ binh nhưng lại phải thành thạo kỹ thuật đánh gần cũng như cách đánh các loại mục tiêu kiên cố, độc lập tác chiến trong điều kiện chỉ huy thông tin hạn chế. Khi có chiến tranh xảy ra mà chiến trường là đảo do ta quản lý bị nước ngoài đánh chiếm thì hải quân đánh bộ phải lấy lại được đảo, không lực lượng nào có thể thay thế.

Các lữ đoàn Hải quân đánh bộ của Việt Nam được trang bị nhiều vũ khí, khí tài tân tiến.

Do đặc thù nhiệm vụ, trang bị vũ khí của Hải quân đánh bộ chủ yếu là các loại súng cá nhân. Một trong những vũ khí đó là súng trường tiến công Tavor TAR-21, có khả năng khai hỏa sau quá trình dài ngâm trong nước khi hành quân.

Hải quân đánh bộ Việt Nam cũng được trang bị "sát thủ diệt tăng" Matador, có khả năng xuyên giáp xe tăng và phá các bức tường gạch hoặc bê tông cốt thép.

b)Tàu ngầm Kilo 636 ‘hố đen đại dương

Các tàu ngầm Kilo mà Nga đóng cho Việt Nam là loại tiên tiến, được gọi là "hố đen đại dương" bởi khả năng ẩn mình gần như hoàn hảo của nó.

Đội hình 6 tàu ngầm Kilo có số hiệu từ 182 đến 187 lần lượt mang tên Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hiện đại hoá vũ khí, khí tài quân sự, nâng cao sức chiến đấu của Hải quân nhân dân Việt Nam.

  1. c) Không quân Hải quân

Ngày 3/7/2013, Bộ Quốc phòng bàn giao Lữ đoàn Không quân 954 từ Quân chủng Phòng không Không quân về Quân chủng Hải quân. Lữ đoàn được giao nhiệm vụ tác chiến săn ngầm, vận tải quân sự, trinh sát, quan sát trên không, trên mặt đất, mặt nước, tìm kiếm cứu nạn trên biển, trên đất liền và cứu hộ, cứu nạn, phòng chống bão lụt.

Hiện nay, Lữ đoàn Không quân 954 đang thực thi nhiệm vụ với các loại máy bay hiện đại hàng đầu khu vực Đông Nam Á gồm trực thăng săn ngầm Ka-28, trực thăng đa năng EC-225, thủy phi cơ DHC-6 và Su30MK2.

Ka-28 được xem là một trong những loại trực thăng săn ngầm hiện đại nhất ở khu vực Đông Nam Á. Trên máy bay được trang bị radar, sonar, phao âm để trinh sát phát hiện tàu ngầm cùng nhiều loại vũ khí như ngư lôi 400mm, bom chìm chống ngầm.

Việt Nam đã mua chiếc 6 chiếc thủy phi cơ DHC-6 để trang bị cho hải quân, trong đó 3 chiếc được cấu hình vận chuyển khách, hàng hóa còn ba chiếc trang bị hệ thống radar hiện đại để giám sát biển.

DHC-6 ngoài khả năng cất hạ cánh trên mặt nước còn có thể cất hạ cánh đường bằng ngắn chỉ vài trăm mét. Vì vậy, DHC-6 được sử dụng nhiều cho các chuyến bay ra đảo Trường Sa Lớn.

Không quân Hải quân Việt Nam còn được trang bị các trực thăng vận tải đa năng EC-225 Super Puma MkII hiện đại hàng đầu thế giới hiện nay. EC-225 đáp ứng tốt nhiệm vụ vận tải hàng hóa, binh sĩ, tìm kiếm cứu hộ cứu nạn. Đặc biệt, nó được tối ưu để chuyên bay biển-nhiệm vụ số một của Không quân Hải quân Việt Nam.

  1. d) Tên lửa chống hạm-lá chắn thép không thể xuyên thủng

Hiện nay, Hải quân được trang bị Tổ hợp tên lửa bờ Bastion-P và Tổ hợp rada bờ Monolit-B, trong đó Bastion-P là một trong những hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển cơ động hiện đại nhất trên thế giới hiện nay.

Đây là tổ hợp vũ khí rất mạnh, một trong những tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển tốt nhất, có khả năng cơ động cao, sử dụng tên lửa chống tàu có tốc độ siêu âm 3M55 "Yakhont" ("Onyx").

Tổ hợp tên lửa Bastion có khả năng tấn công mục tiêu xa đến 300 km và bảo vệ một tuyến bờ biển chống tác chiến đổ bộ của đối phương lên đến 600 km.

Một trong những đặc trưng của tên lửa chống tàu Yakhont là chương trình phần mềm nhân tạo chạy trên máy tính đầu đạn. Nó cho hiệu quả chiến đấu rất cao khi bắn loạt tên lửa. Trong trường hợp bị tấn công ồ ạt với số lượng lớn các tàu, chương trình trên đầu đạn tự chọn và đánh giá độ quan trọng của mục tiêu, lựa chọn tọa độ và phương thức tấn công. Đồng thời, chương trình cũng lựa chọn khả năng chống lại tác chiến điện tử và lựa chọn phương án tránh góc bắn của hỏa lực phòng không đối phương để tấn công tàu.

Khi tiêu diệt mục tiêu trong đội hình, các tên lửa còn lại chuyển hướng sang các mục tiêu khác, loại trừ khả năng 2 tên lửa cùng tiêu diệt một mục tiêu.

Trong điều kiện phát triển sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Hải quân, các tổ hợp tên lửa này cho phép bảo vệ vững chắc vùng biển, bờ biển của quốc gia.

  1. e) Tàu mặt nước-hộ vệ tên lửa tàng hình đa nhiệm

Hiện nay Hải quân Việt Nam đang sở hữu nhiều loại tàu mặt nước gồm tàu hộ vệ tên lửa, tàu pháo, tàu săn ngầm... trong đó hai tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9 mang tên HQ011-Đinh Tiên Hoàng và HQ012-Lý Thái Tổ là những tàu chiến mặt nước do Nga sản xuất đã được đưa vào trực chiến. Chiếc thứ 3 đã về nước, chiếc thứ 4 đang trên đường về.

Tàu Gepard 3.9 của Việt Nam được thiết kế thực hiện các nhiệm vụ chống tàu ngầm, tàu nổi và các mục tiêu trên không của địch khi thực hiện các nhiệm vụ hộ tống tàu chiến, tàu vận tải, các đoàn tàu cơ động, tiến hành các nhiệm vụ cảnh giới biển, bảo vệ hải giới và thềm lục địa, bảo vệ các khu vực kinh tế biển và bảo vệ các khu vực biển gần.

Để tăng cường khả năng cơ động và tác chiến độc lập của tàu trên biển, các nhà thiết kế đã tăng cường khả năng hải trình của tàu từ 9 ngày không phải bổ sung nhiên liêu và cơ sở vật chất lên đến 20 ngày và tầm hoạt động (với tốc độ hải trình 18 hải lý/giờ) từ 2.500 hải lý lên 3.500 hải lý.

Tàu được trang bị hệ thống tên lửa chống tàu thế hệ mới nhất XЗ5 3M24 Uran, tăng cường khả năng tác chiến so với các loại tàu tuần biển khác. Hệ thống sonar MGK-335EM-03 có góc quét 260 độ, phát hiện được tàu ngầm ở bán kính 10-12 km, thủy lôi cự ly 2 km và 2 thiết bị phóng ngư lôi cỡ nòng 533 mm.

  • Cùng với tàu ngầm Kilo 636, máy bay chiến đấu đa năng Su30MK2 và tên lửa chống hạm siêu âm Yakhont của hệ thống Bastion-P (có tầm bắn 300 km, đặt trên bờ), Gepard 3.9 sẽ giúp quân đội Việt Nam chính thức có được năng lực tiến công đa năng 3 trong 1 (trên không, dưới nước và trên mặt nước) ở khu vực biển gần, đặc biệt là việc nâng cao đáng kể khả năng chống ngầm.

Tàu tên lửa tấn công nhanh

Từ năm 2014 đến 2016, sáu chiếc tàu tên lửa Molnya do Tổng công ty Ba Son (Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) đóng mới đã được bàn giao cho Hải quân, biên chế cho Lữ đoàn tàu pháo, tên lửa 167 (Vùng 2 Hải Quân, đóng tại Nhơn Trạch, Đồng Nai). Đây là tàu tên lửa tấn công nhanh lớp Molniya (lớp Tia chớp) - một trong những tàu chiến uy lực hoàn thiện về công nghệ và có tính ổn định cao nhất thế giới.

Tàu tên lửa Molnya được trang bị bốn dàn phóng tên lửa Uran - E với tổng số 16 tên lửa, cự ly bắn 130 km, một pháo hạm tự động AK - 176M, cự ly bắn khoảng 15 km, cao 11 km và tốc độ khoảng 120-130 viên/phút. Tàu cũng trang bị hai pháo 6 nòng tự động AK630, có tầm bắn 4-5 km, tốc độ bắn 4.000 - 5.000 viên/phút. Hệ thống pháo nhiễu phục vụ bắn tên lửa khi có mục tiêu.

Với sức chiến đấu cao, trang bị vũ khí hiện đại, đồng bộ, sức cơ động nhanh, tàu Molnya có thể độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến với các lực lượng khác trong các chiến dịch của Quân chủng để bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.

Trong 6 chiếc tàu tên lửa do Tổng công ty Ba Son đóng thì cặp tàu M5 và M6 là hiện đại nhất. Với lượng choán nước toàn tải 490 tấn và độ sâu mớm nước 2,56 m, tàu có tính năng đi biển rất cao, đảm bảo hiệu quả sử dụng vũ khí trên tàu khi sóng biển cấp 5-8. Để tự bảo vệ trước các đòn tấn công trên không và ngư lôi, tàu được trang bị hai ống phóng mồi bẫy kiểu PK-10, một giá phóng tên lửa đối không tầm thấp Igla (12 quả). Thời gian hoạt động trên biển là 10 ngày, cự ly hoạt động khi chạy ở tốc độ tuần tiễu là từ 3.000 đến 4.400 km.

  1. Các Bộ Tư Lệnh thuộc quân chủng Hải Quân
  2. a) Bộ Tư lệnh Vùng 1 Hải quân

Bộ Tư lệnh Vùng 1 Hải quân trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển từ Quảng Ninh đến Hà Tĩnh và các đảo trong Vịnh Bắc Bộ, bao gồm các tỉnh Quảng Ninh,Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

  1. b) Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân quân

Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển từ Nam Bình Thuận đến Bạc Liêu và thềm lục địa phía Nam, trong đó có khu vực trọng điểm là vùng biển có các cụm kinh tế - khoa học - dịch vụ (gọi tắt là DK1) thuộc thềm lục địa phía Nam, gồm có các tỉnh: phía Nam của Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh,Sóc Trăng, Bạc Liêu, và vùng biển phía Đông Nam của tỉnh Cà Mau (bao gồm cả nhà giàn DK1/10 ở bãi ngầm Cà Mau).

  1. c) Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân

Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển giữa miền Trung, từ Quảng Bình đến Bình Định gồm các tỉnh là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định gồm các đảo Cồn Cỏ, Lý Sơn, Quần đảo Hoàng Sa, v.v.

  1. d) Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân

Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệQuần đảo Trường Sa, đảo Phú Quý, biển Đông và vùng biển phía nam miền Trung, từ Phú Yên đến Bắc Bình Thuận gồm các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và phía Bắc của Bình Thuận.

  1. e) Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân

Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển Nam biển Đông và vịnh Thái Lan thuộc vùng biển hai tỉnh Cà Mau (biển phía Tây Nam của Cà Mau) và Kiên Giang

QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN

  1. Tổ chức chung

Quân chủng Phòng không-Không quân được tổ chức thành Bộ tư lệnh Quân chủng, các đơn vị chiến đấu; khối bảo đảm; khối nhà trường và các đơn vị kinh tế. Bộ Tư lệnh quân chủng có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh; Chính uỷ và Phó Chính uỷ, các cơ quan đảm nhiệm các mặt công tác quân sự; công tác đảng, công tác chính trị; kỹ thuật; hậu cần và các đơn vị trực thuộc. Quân chủng có các sư đoàn không quân, sư đoàn phòng không và một số đơn vị không quân trực thuộc là các đơn vị chiến đấu chủ yếu.

Chức năng nhiệm vụ

Quân chủng Phòng không-Không quân Nhân dân Việt Nam là một trong ba quân chủng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ không phận, mặt đất và biển đảo Việt Nam; cứu trợ, tìm kiếm cứu nạn và các nhiệm vụ khác. Quân chủng Phòng không - Không quân đảm nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân. Quân chủng Phòng không - Không quân là lực lượng nòng cốt quản lý, bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân dân đồng thời tham gia bảo vệ các vùng biển đảo của Tổ quốc. Lực lượng Phòng không-Không quân có thể độc lập thực hiện nhiệm vụ hoặc tham gia tác chiến trong đội hình quân binh chủng hợp thành. Quân chủng làm tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo xây dựng lực lượng phòng không lục quân và không quân thuộc các quân chủng, binh chủng, ngành khác. Lực lượng không quân vận tải ngoài nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu còn tham gia các hoạt động cứu trợ thiên tai và phát triển kinh tế.

Sự ra đời của đơn vị pháo phòng không đầu tiên

Cho đến tận năm 1950, dù phần nào có những lực lượng mạnh để thực hiện tiến công chiến lược, các đơn vị của Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn gần như bất lực trước các hoạt động trinh sát hoặc tấn công từ trên không của người Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1949, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giápra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu để nghiên cứu các phương pháp chống trả. Chỉ đến khi sau Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu có được những viện trợ quý giá từ chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong đó có những khẩu đội súng phòng không 12,7mm. Lực lượng Không quân Pháp sau những bất ngờ đầu tiên, vẫn duy trì được ưu thế. Tuy nhiên, không lâu sau, tháng 5 năm 1951, người Việt đã cho thành lập Đại đội 612, đơn vị phòng không đầu tiên sử dụng 4 khẩu 37mm. Ban Nghiên cứu Không quân được giải thể và hầu hết cán bộ của Ban được chuyển thuộc vào đơn vị phòng không đang được thành lập. Đến đầu năm 1953, họ đã có 8 tiểu đoàn phòng không, với 500 súng máy phòng không 12,7mm và 4 pháo cao xạ 37mm.

Ngày 1 tháng 4 năm 1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân danh Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã ký quyết định số 06/QĐ thành lập Trung đoàn Pháo cao xạ 367. Đây là Trung đoàn pháo Cao xạ chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ban chỉ huy Trung đoàn đầu tiên gồm Lê Văn Tri – Trung đoàn trưởng, Nguyễn Quang Bích - Trung đoàn phó, Đoàn Phụng - Chính ủy, Ngô Từ Vân - Phó chính ủy. Ngày 1 tháng 4 cũng trở thành ngày truyền thống của lực lượng phòng không Việt Nam.

Sau 8 tháng huấn luyện tại Trung Quốc, ngày 1 tháng 12 năm 1953, toàn bộ đội hình Trung đoàn cùng khí tài đã về nước và tập kết ở tây bắc thị xã Tuyên Quang. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung đoàn 367 trong đội hình Đại đoàn Công Pháo 351 đã góp phần không nhỏ vào việc hạn chế sự tấn công từ trên không cũng như việc tiếp tế - chuyển quân của người Pháp.

Hình thành Bộ Tư lệnh phòng không và Cục Không quân

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại đoàn Công pháo 351 được giải thể. Bộ Tổng tư lệnh ra Nghị định số 34/NĐA nâng cấp Trung đoàn Phòng không 367 lên thành Đại đoàn pháo cao xạ hỗn hợp 367 trực thuộc Bộ chỉ huy Pháo binh vào ngày 21 tháng 9 năm 1954. Hoàng Kiện làm Đại đoàn trưởng, Đoàn Phụng làm Chính ủy, Lê Văn Tri làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng. Đại đoàn được biên chế các cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp và ba trung đoàn 681, 685, 689, trang bị pháo 88mm và 40mm. Theo quyết định của Bộ Tổng tham mưu, để giữ bí mật lực lượng, các trung đoàn 681, 685, 689 được gọi là các tiểu đoàn 12, 13, 14[. Sau khi được tổ chức và huấn luyện ở Vai Cầy, Thái Nguyên, đêm ngày 16 tháng 12 năm 1955, Đại đoàn 367 hành quân về tiếp quản Hà Nội.

Bên cạnh đó, ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng. Ngày này về sau được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam. Một năm sau đó, liên tục các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Ngày 26 tháng 1 năm 1956, Việt Nam tiếp nhận 5 máy bay đầu tiên do Trung Quốc viện trợ gồm 2 Li-2 và 3 Aero 45. Ngày 24 tháng 2 năm 1956, 2 đoàn học viên lái máy bay gồm Đoàn học máy bay tiêm kích MiG-17, gồm 50 học viên, do Phạm Dưng làm Đoàn trưởng và Đoàn học máy bay ném bom Tu-2, gồm 30 học viên, do Đào Đình Luyệnlàm Đoàn trưởng, học tại Trường Không quân số 2 ở Trường Xuân, Trung Quốc. Trong Đoàn học Tu-2 có sáu học viên dẫn đường trên không (chuyên dẫn đường trên các loại máy bay và trực thăng) đầu tiên là: Đinh Huy Cận, Lê Thế Hưng, Nguyễn Văn Kính, Lê Liên, Lương Nhật Nguyễn và Nguyễn Cảnh Phiên.

Ngày 21 tháng 3 năm 1958, Trung đoàn ra đa cảnh giới đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Namđược thành lập với tên gọi Trung đoàn đối không cần vụ 260. Cùng ngày hôm đó, Bộ Quốc phòng cũng ra Nghị định 047/NĐ thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không trên cơ sở của Sư đoàn Phòng không 367 và Trung đoàn đối không cần vụ. Trong những năm sau đó, các trung đoàn pháo phòng không được thành lập, trang bị các loại pháo 57 mm và 100 mm. Bên cạnh đó, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ được đi học sử dụng vũ khí tên lửa phòng không tại các trung tâm huấn luyện quân sự của Liên Leningrad, Kiev, Odessa, Minsk... để chuẩn bị cho việc hình thành các đơn vị tên lửa phòng không sau này.

Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra nghị định thành lập Cục Không quân trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở hợp nhất các tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đại tá Đặng Tính được bổ nhiệm làm Cục trưởng, Thượng táHoàng Thế Thiện làm Chính ủy, Trung Hoàng Ngọc Diêu làm Tham mưu trưởng.

Sau một năm huấn luyện, ngày 1 tháng 3 năm 1959, Trung đoàn đối không cần vụ 260 bắt đầu phát sóng. Ngày này về sau được lấy làm ngày truyền thống của Bộ đội Ra-da.

Ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục Không quân ra quyết định thành lập Đại đội bay gồm: Ban chỉ huy đại đội, 3 Chủ nhiệm Dẫn đường, Thông tin và Máy (kỹ thuật hàng không); 1 trung đội bay Il-14, 1 trung đội bay Li-2, 1 trung đội bay An-2 và 1 trung đội máy gồm tất cả nhân viên kỹ thuật trên không (cơ giới) và mặt đất của các loại máy bay.

Ngày 1 tháng 5 năm 1959, Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên, Trung đoàn 919, được thành lập. Đến ngày 20 tháng 8, Trung đoàn Huấn luyện không quân 910 cũng được thành lập.

Ngày 1 tháng 5 năm 1960, 6 sĩ quan và một chiến sĩ Lê Thành Chơn được triệu tập về Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn để ôn văn hóa và học tiếng Trung Quốc, chuẩn bị để đào tạo sĩ quan dẫn đường (hoa tiêu) trong lực lượng không quân. Cuối năm 1961, toàn bộ các học viên dẫn đường tốt nghiệp và về nước.

Ngày 30 tháng 5 năm 1963, Trung đoàn không quân tiêm kích 921, mật danh là Đoàn Sao Đỏ, được thành lập tại Trung Quốc, do Trung tá Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy, Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó, Thiếu tá Trần Văn Thọ làm Tham mưu trưởng[8].

Ngày 10 tháng 7 năm 1963, một đơn vị đặc biệt mang phiên hiệu Trung đoàn 228B (trùng tên với trung đoàn cao xạ 228 để giữ bí mật) được thành lập. Về thực chất đây là đơn vị các cán bộ nòng cốt để xây dựng Trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên.

Thành lập Quân chủng

Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 10 năm 1963 trên cơ sở sáp nhập Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân.

Ngày 7 tháng 1 năm 1965, Bộ Quốc phòng ra quyết định số 03/QĐ-QP thành lập Trung đoàn cao xạ 236 ("Đoàn Sông Đà"). Thực chất, đây là trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên thuộc Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân. Các cán bộ của trung đoàn đều từ đoàn 228B chuyển sang.

Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn tiêm kích 921 trở về nước. sau 1 năm huấn luyện, ngày 3 tháng 4 năm 1965, trung đoàn xuất kích đánh thắng trận đầu, bắn rơi 2 máy bay F-8 của Hải quân Mỹ. Ngày hôm sau, tiếp tục bắn hạ thêm 2 máy bay F-105 của Không quân Mỹ.

Ngày 22 tháng 4 năm 1965, lập Trung đoàn tên lửa 238 ("Đoàn Hạ Long") được thành lập. Ngày 19 tháng 5 năm 1965, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 361) và Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 363).

Ngày 4 tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân tiêm kích thứ 2 là Trung đoàn 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17 phi công MiG-17, do Trung tá Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực.

Ngày 13 tháng 11 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa 257 ("Đoàn Cờ Đỏ"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.

Ngày 20 tháng 4 năm 1966, thành lập Trung đoàn ra đa 293, thuộc sư đoàn phòng không 361.

Ngày 30 tháng 5 năm 1966, thành lập 3 trung đoàn tên lửa phòng không 261 ("Đoàn Thành Loa"), 263, 267, thuộc Bộ Tư lệnh Quân chủng. Nay thuộc Sư đoàn phòng không 367.

Ngày 15 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Q khu 4.

Ngày 21 tháng 6 năm 1966, thành lập Sư đoàn phòng không 367. Tiền thân là trung đoàn pháo cao xạ 367, thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1953, chuyển thành Đại đoàn pháo cao xạ 367 ngày 21 tháng 9 năm 1954, trước đây thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh, sau này tách ra đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Phòng không (1958).

Ngày 23 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Bắc, đến 16 tháng 3 năm 1967 đổi tên thành Sư đoàn phòng không 365.

Ngày 23 tháng 3 năm 1967, thành lập các Binh chủng Ra-đa, Tên lửa Phòng không và Không quân.

Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ tư lệnh không quân được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 1 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 375 thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 4.

Ngày 27 tháng 5 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 377.

Tháng 3 năm 1972, thành lập Trung đoàn không quân thứ 3, Trung đoàn 927 ("Đoàn Lam Sơn").

Ngày 29 tháng 3 năm 1973, thành lập Sư đoàn phòng không 673 tại Bình - Trị Thiên.

Trong thời gian từ 16 tháng 5 năm 1977 đến 3 tháng 3 năm 1999, Quân chủng Phòng không-Không quân tách ra thành hai Quân chủng Phòng không và Không quân riêng biệt. Việc chia tách này phần nào áp đặt theo mô hình tổ chức của Liên Xô, vốn có lãnh thổ rộng lớn và tiềm lực quân sự mạnh, không phù hợp với đặc thù Việt Nam, có lãnh thổ nhỏ hẹp và tiềm lực quân sự yếu. Chính vì vậy, sau khi Liên Xô tan rã, mô hình 2 quân chủng cũng không còn phù hợp, cần tinh giản và gọn nhẹ trong bộ máy quản lý. Từ tháng 3 năm 1999, lại sáp nhập lại thành Quân chủng Phòng không - Không quân.

  • Đơn vị trực thuộc Quân chủng (nghiên cứu tài liệu)
  1. NGOÀI RA QĐ TA HIỆN NAY CÒN: thành lập một số lực lượng mới như:

Cục tác chiến điện tử,…

KẾT LUẬN

Hiểu biết chung về quân, binh chủng là những nhân tố cơ bản giữ vai trò chủ đạo về QPAN trong thời kỳ mới. cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và sự quản lý, điều hành tập trung thống nhất của Nhà nước với sự nghiệp QP-AN nhằm xây dựng Quân đội vững mạnh, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn ‘’DBHB-BLLĐ” của các thế lực thù địch, ngăn chặn vả đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chủ động giữ nước ngay trong thời bình, đồng thời sẳn sàng đối phó thắng lợi với các cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch. Bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa trong mọi tình huống.

 

Bài 4: Điều lệnh đội ngũ từng người có súng

NỘI DUNG

  1. Động tác đặt súng, lấy súng tiểu liên AK.

Ý nghĩa: Để đảm bảo trật tự thống nhất khi nghỉ ở bãi tập, nơi công tác, đồng thời đảm bảo sẵn sàng chiến đấu.

  • Động tác đặt súng:

Khẩu lệnh: “Đặt súng” không có dự lệnh.

Khi nghe dứt động lệnh “Đặt súng”, làm 3 cử động:

Cử động 1:Tay phải vuốt nhẹ theo dây súng đưa xuống nằm ốp lót tay, đưa súng ra khỏi vai thành tư thế xách súng.

Cử động 2: Chân trái bước lên một bước thẳng hướng trước mặt, cúi ngườixuống, chân phải thẳng, chân trái chùng. Tay phải đặt nhẹ súng xuống, súng thẳng hướng về trước, tay kéo bệ khóa nòng nằm ở phía dưới mặt súng hướng sang phải, đế báng súng ngang với mũi bàn chân phải.

Cử động 3: Đứng thẳng người lên, chân trái đưa về sát chân phải thành tư thế đứng nghiêm.

  1. c) Động tác lấy súng:

Khẩu lệnh: “Lấy súng” không có dự lệnh.

Khi nghe dứt động lệnh “Lấy súng”, làm 3 cử động:

Cử động 1: Chân trái bước lên 1 bước, cúi người xuống, chân phải thẳng, chân trái chùng. Tay

Cử động 2: Nhấc súng đứng thẳng người lên, chân trái đưa về sát với chânphải, tay phải đưa súng lên dọc chính giữa trước thân người, cách thân người 20cm (tính ở ngực), nòng súng hướng lên trên, mặt súng hướng sang phải, tay trái đưa lên nắm ốp lót tay (dưới tay phải).

Cử động 3: Tay phải rời ốp lót tay đưa về nắm cổ báng súng, hộ khẩu tayhướng lên trên. Phối hợp 2 tay xoay mũi súng xuống dưới (tay trái hơi lỏng ra,chuyển hộ khẩu tay quay lên trên). Tay phải đưa về nắm dây súng, ngón tay cái nắm dọc theo dây súng ở bên phải bốn ngón con khép lại nắm ở bên phải, ngón tay trỏ ngang khâu đeo dây ở thân súng 30cm. Dùng sức đẩy của tay trái và sức nâng của tay phải đưa súng sang bên phải về đằng sau quàng dây súng vào vai phải, tay phải giữ dây súng (ngón tay trỏ cao ngang mép trên nắp túi áo ngực), cánh tay khép lại giữ cho súng nằm dọc theo chân người phía sau bên phải. Tay trái đưa về thành tư thế đứng nghiêm mang súng.

Động tác khám súng, khám súng xong của súng tiểu liên AK (đang tư thế mang súng)

  1. a) Ý nghĩa: Khám súng là để chấp hành quy tắc bảo đảo bảo an toàn tuyệt đối trong việc giữ gìn vũ khí, trang bị đối với mọi trường hợp huấn luyện, sinh hoạtcông tác, hành trú quân chiến đấu và đảm bảo an toàn trước và sau khi dùng súng.

Khám súng là một động tác cần thiết của mọi quân nhân nhằm đảm bảo an toàn cho người giữ súng và những người xung quanh.

  1. b) Động tác khám súng

- Khẩu lệnh: “Khám súng” chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

 

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Khám súng”, làm 3 cử động:

Cử động 1: Tay phải vuốt nhẹ theo dây súng đưa về nắm ốp lót tay độngthời chân trái bước lên 1/2 bước theo hướng trước mặt. Mũi bàn chân chếch sangphải 450, lấy mũi chân phải làm trụ xoay gót lên người sang phải 45 độ đồng thời tay phải đưa súng lên cánh tay cong tự nhiên, tay trái nhanh chóng đưa lên nắm ốp lót tay dưới thước ngắm (nắm cả dây súng) nóng súng chếch lên 450 , báng súng sát hông bên phải.

Cử động 2: Tay phải rời ốp lót tay đưa về nắm hộp tiếp đạn lòng bàn tayhướng về trước, hộ khẩu tay nắm sau sống hộp tiếp đạn, 4 ngón con khép lại nắmbên phải hộp tiếp đạn, dùng ngón tay cái hoặc hộ khẩu tay ấn lẫy giữ hộp tiếp đạn tháo hộp tiếp đạn ra, chuyển qua tay trái giữ hộp tiếp đạn. Tay trái giữ hộp tiếp đạn dùng ngón tay giữa và ngón áp út choàng giữ ở bên phải hộp tiếp đạn, miệng hộp tiếp đạn hướng vào người, sống hộp tiếp đạn hướng xuống dưới. Tay phải gạt cần điều khiển về vị trí bắn rồi đưa về nắm tay cầm.

Cử động 3: Khi người kiểm tra đến bên phải phía sau kết hợp 2 tay đưasúng lên tỳ đế báng súng vào thắt lưng bên phải, trước bụng. Tay phải nắm tay kéo bệ khóa nòng của súng (ngón cái hơi co lại tỳ vào tay kéo khóa nòng, 4 ngón con khép lại nắm dọc bên phải thân súng) kéo khóa nòng về sau hết cỡ đồng thời hơi nghiêng mặt súng sang trái. Khi nghe người kiểm tra hô “ĐƯỢC”, tay phải thả khóa nòng về trước, bóp chết cò, đóng khóa an toàn, lắp hộp tiếp đạn vào súng rồi đưa về nắm tay cầm. Phối hợp hai tay đưa súng về sát hông bên phải.

  1. Động tác khám súng xong

- Khẩu lệnh: “Khám súng xong” chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Khám súng xong”, làm 3 cử động:

Cử động 1: lấy mũi bàn chân phải làm trụ, xoay gót về vị trí cũ, chân tráiđưa về sát chân phải, đồng thời phối hợp 2 tay xoay mũi súng xuống dưới (tay trái hơi lỏng để xoay hộ khẩu tay hướng lên trên, tiếp tục nắm ốp lót tay). Súng dọc theo thân người, cách thân người 20cm.

Cử động 2: Tay phải rời tay cầm về nắm dây súng, cách khâu đeo dây ởbáng súng khoảng 30cm (ngón tay cái hướng lên trên và ở bên trong,bốn ngón con khé p lại nằm ở bên ngoài dây súng), kéo căng dây súng vào người,nắm tay cách thân người 10cm.

Cử động 3: Dùng sức đẩy của tay trái và sức xoay của tay phải đưa súng sang phải về sau. Quàng dây súng vào vai phải, tay trái đưa về thành tư thế đứngnghiêm mang súng.

  1. Động tác mang súng AK.
  2. a) Ý nghĩa: Động tác mang súng, xuống súng thường dùng trong hành quân, chuyển vị trí, tuần tra canh gác, luyện tập…bảo đảm thống nhất.
  3. b) Động tác mang súng

- Khẩu lệnh: “Mang súng-Mang”, có dự lệnh và động lệnh; “Mang súng”là dự lệnh, “Mang” là động lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Mang”, làm 3 cử động:

Cử động 1: Tay phải đưa súng lên phía trước, súng dọc theo chính giữa thân người, cách thân người 20cm (tính ở ngực), khâu đeo dây súng ngang vai, mặt súng quay sang phải, cánh tay trên tay phải khép sát sườn, đồng thời tay trái bắt lấy ốp lót tay, trên thước ngắm (dưới tay phải).

Cử động 2: Tay phải rời khỏi súng về nắm chắc dây súng cách khâu đeo dây ở nòng súng 30cm, kéo căng vào người (ngón tay cái dọc theo bên trong dâysúng, bốn ngón con khép lại nắm ở bên ngoài), đồng thời tay trái xoay mặt súng ra phía trước (đối với súng có khâu đeo dây ở má báng súng, không phải xoay mặt súng ra phía trước).

Cử động 3: Dùng sức đẩy của tay trái và sức xoay của tay phải nhanhchóng đưa súng ra phía sau, quàng dây súng vào vai phải. Cánh tay trên của tayphải khép sát sườn, giữ cho súng nằm dọc theo thân người. Nòng súng hướng lêntrên, mép trên ngón tay trỏ cao ngang mép trên nắm túi áo ngực. Tay trái đưa vềthành tư thế đứng nghiêm.

  1. c) Động tác xuống súng

- Khẩu lệnh: “Xuống súng – Xuống”, có dự lệnh và động lệnh; “Xuốngsúng” là dự lệnh, “Xuống” là động lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Xuống”, làm 3 cử động:

  • Cử động 1: Dùng sức xoay của tay phải, đưa súng ra khỏi vai về trước,đồng thời tay trái đưa lên bắt lấy ốp lót tay (trên thước ngắm), mặt súng quay raphía trước. Súng có khâu đeo dây ở má báng súng thì mặt súng quay sang phải.

Cử động 2: Tay phải rời dây súng đưa về nắm ốp lót tay trên tay trái, đồngthời xoay mặt súng sang phải (súng có khâu đeo ở má báng súng không phải xoay).Khâu đeo dây súng cao ngang vai, cánh tay phải khép sát sườn, súng dọc theo thân người cách 20cm.

          Cử động 3: Tay phải đặt nhẹ súng xuống, tay trái đưa về thành tư thếđứng nghiêm.

  1. Đeo súng, xuống súng tiểu liên AK
  2. a) Ý nghĩa: Động tác đeo súng thường trong khi tay bận hoặc các việc khác như leo, trèo, mang vác.

Động tác đeo súng (khi đang ở tư thế mang súng)

Khẩu lệnh: “Đeo súng”, chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Đeo súng”, làm 3 cử động:

Cử động 1: Tay phải vuốt nhẹ theo dây súng đưa về nắm ốp lót tay, đưasúng lên phía trước, súng cách thân người 20cm. Mũi súng hơi chếch sang trái, mặt súng quay sang phải, khâu đeo dây phía trên cao ngang vai trái. Đồng thời tay trái nắm thân súng dưới thước ngắm, ngón út sát tay kéo khóa nòng.

Cử động 2: Tay phải rời ốp lót tay chuyển về nắm chính giữa dây súng,lòng bàn tay úp vào trong người (ngón cái nằm dọc phía trong dây súng, bốn ngón con khép lại nằm phía ngoài dây súng), kéo căng dây súng sang bên phải, đồng thời dùng cùi tay phải đưa vào giữa súng và dây súng, súng nằm chếch trước người, vòng cò ở khoảng thắt lưng. Phối hợp hai tay đưa dây súng qua đầu quàng vào cổ, tay phải luồn vào giữa súng và dây súng. Súng nằm chếch trước ngực từ trái sang phải, mặt súng quay lên trên. Tay phải chuyển về nắm ốp lót tay trên, tay trái rời thân súng đưa về nắm dây súng trên vai trái.

Cử động 3: Phối hợp hai tay đưa súng sang phải về sau. Súng nằm chếchsau lưng từ trái sang phải, mũi súng hướng chếch xuống dưới, hai tay đưa về thành tư thế đứng nghiêm.Động tác xuống súng (thành tư thế mang súng)

- Khẩu lệnh: “Mang súng” chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Mang súng”, làm 3 cử động:

   Cử động 1: Tay phải đưa về sau nắm ốp lót tay trên, tay trái đưa lên nắm dây súng trên vai trái hơi nâng lên.

Cử động 2: Tay phải đưa súng từ sau lưng qua phải về trước, súng nằmchếch trước ngực từ trái sang phải.

            Cử động 3: Phối hợp hai tay nhấc dây súng lên, đưa qua đầu, quàng dâysúng vào vai phải thành tư thế mang súng. Tay phải rời ốp lót tay, đưa lên nắm dây súng (ngón tay trỏ cao ngang mép trên túi áo ngực), tay trái đưa về thành tư thế đứng nghiêm mang súng.

  1. c) Động tác đeo súng (khi đang ở tư thế treo súng)

- Khẩu lệnh: “Đeo súng”, chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Đeo súng”, làm 2 cử động:

Cử động 1: Tay phải rời cổ báng súng đưa lên nắm ốp lót tay trên, tay tráiđưa lên nắm dây súng tên vai trái hơi nâng lên.

Cử động 2: Phối hợp hai tay đưa dây súng qua phải về sau lưng. Súng nằm chếch sau lưng từ trái sang phải, mũi súng hướng chếch xuống dưới. Hai tayđưa về thành tư thế đứng nghiêm.

Động tác xuống súng (về tư thế treo súng)

- Khẩu lệnh: “Treo súng”, chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Treo súng”, làm 3 cử động:

            Cử động 1: Tay phải đưa về sau lưng nắm ốp lót tay, tay trái đưa lên nắmdây súng trên vai trái hơi nâng lên.

Cử động 2: Phối hợp hai tay đưa súng từ sau sang phải về trước,súng nằmchếch trước ngực 450 từ trái sang phải, mặt súng quay lên trên, tay kéo khóa nòng nằm chính giữa hàng khuy áo.

Cử động 3: Tay phải rời ốp lót tay đưa về nắm cổ báng súng, ngón cái bên trong, bốn ngón con bên ngoài. Tay trái đưa về thành tư thế đứng nghiêm.

  1. Động tác treo súng tiểu liên AK
  2. a) Ý nghĩa: Động tác treo súng thường dùng khi canh gác, làm nhiệm vụ đón tiếp, duyệt đội ngũ, duyệt binh, diễu binh…
  3. b) Động tác treo súng tiểu liên AK (Khi đang ở tư thế mang súng) - Khẩu lệnh: “Treo súng”, chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “TREO SÚNG”, làm 3 cử động:

Cử động 1: Tay phải vuốt nhẹ theo dây súng đưa về nắm ốp lót tay, đưa súng về phía trước, cách người 20cm (tính ở ngực) mũi súng chếch sang trái, đồng thời tay trái nắm thân súng dưới thước ngắm, ngón út sát tay kéo bệ khóa nòng. Cử động 2: Tay phải rời ốp lót tay về nắm giữa dây súng (ngón tay cái đặtdọc phía trong dây súng, bốn ngón con khép lại nắm phía ngoài) kéo căng sangphải, dùng cùi tay phải đưa vào giữa súng và dây súng, súng nằm chếch trước người.

Cử động 3: Phối hợp 2 tay nhấc dây súng qua đầu quàng vào cổ, đồng thờitay phải luồn vào giữa thân súng và dây súng rồi đưa về nắm cổ báng súng ngóncái bên trong, bốn ngón con khép lại nắm bên ngoài (hổ khẩu tay sát hộp khóanòng). Cánh tay phải mở tự nhiên. Súng nằm chếch trước ngực 45 0 từ trái sangphải, mặt súng hướng lên trên, tay kéo khóa nòng nằm chính giữa hàng khuyu áo,vòng cò ở giữa thắt lưng, tay trái đưa về thành tư thế đứng nghiêm.Động tác xuống súng tiển liên AK (ở tư thế treo súng về tư thế mang súng)

- Khẩu lệnh: “MANG SÚNG”, chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “MANG SÚNG”, làm 3 cử động:

Cử động 1: Tay phải đưa lên nắm ốp lót tay, hổ khẩu tay hướng sang trái và nắm trên ốp lót tay trên, tay trái đưa lên nắm dây súng trên vai trái.

Cử động 2: Phối hợp hai tay nhấc dây súng đưa qua đầu, rồi quàng dâysúng vào vai phải thành tư thế mang súng.

Cử động 3: Tay phải rời ốp lót tay đưa về nắm dây súng cao ngang nắp túiáo ngực bên phải. Tay trái đưa về thành tư thế đứng nghiêm.

  1. c) Động tác treo súng tiểu liên AK (Khi đang ở tư thế đeo súng)

- Khẩu lệnh: “Treo Súng”, chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Treo súng”, làm 3 cử động:

Cử động 1: Tay phải đưa về sau nắm ốp lót tay, tay trái đưa lên nắm dâysúng trên vai trái.

Cử động 2: Phối hợp 2 tay đưa súng từ sau ra trước, súng nằm chếch trướcngực 45 độ từ trái sang phải, mặt súng quay lên trên, tay kéo khóa nòng nằm chính giữa hàng khuy áo.

Cử động 3: Tay phải rời ốp lót tay chuyển về nắm cổ báng súng, ngón cáiở bên trong, bốn ngón con ở bên ngoài. Tay trái đưa về thành tư thế đứng nghiêm treo súng.

  1. d) Động tác đeo súng tiểu liên AK (ở tư thế treo súng về tư thế đeo súng) - Khẩu lệnh: “Đeo súng”, chỉ có động lệnh, không có dự lệnh.

- Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Đeo súng”, làm 2 cử động:

Cử động 1: Tay phải rời cổ báng súng đưa về sau nắm ốp lót tay trên, taytrái đưa lên nắm dây súng trên vai trái và nâng lên.

Cử động 2: Phối hợp 2 tay đưa dây súng sang bên phải về sau, súng nằm chếch sau lưng từ trái sang phải, nòng súng hướng xuống dưới, hai tay đưa vềthành tư thế đứng nghiêm.

Những điểm cần chú ý:

- Khi đưa dây súng qua đầu không cúi đầu.

- Không để thân người ngả nghiêng, lắc lư.

 

Bài 5: Điều lệnh đội ngũ đơn vị

MỞ ĐẦU

Đội ngũ đơn vị là nội dung quan trọng trong chương trình GDQP cho sinh viên thông qua nội dung này rèn luyện cho các em tác phong nhanh nhẹn, khẩn trương, nghiêm túc, ý thức tổ chức kỉ luật, tự giác chấp hành điều lệnh và các nội quy khác của nhà trường, các em năm được cách tập trung tiểu đội trung đội, cách giàn hàng dóng hàng rất thuận tiện cho các em trong quá trình học tập .

Tài liệu được biên soạn dựa trên cơ sở sách giáo khoa GDQP dành cho sinh viên đại học của bộ GD và ĐT xuất bản 2015 và các tài liệu tham khảo khác.

Nội dung học gồm : - Đội ngũ tiểu đội.

  • Đội ngũ trung đội.
  • Đổi hướng đội hình.
  1. ĐỘI NGŨ TIỂU ĐỘI.
  2. ĐỘI HÌNH TIỂU ĐỘI HÀNG NGANG.
  3. Đội hình tiểu đội một hàng ngang

Ý nghĩa: đội hình tiểu đội một hàng ngang thường dùng trong học tập, sinh hoạt, kiểm tra, khám súng, giá súng.

Thứ tự thực hiện: Thực hiện theo thứ tự 4 bước:

Khẩu lệnh: “Tiểu đội thành một hàng ngang - tập hợp” có dự lệnh và động lệnh, “tiểu đội thành một hàng ngang” là dự lệnh, “tập hợp” là động lệnh.

Động tác: Tiểu đội trưởng xác định trước vị trí và hướng tập hợp rồi quay về phía các chiến sỹ, đứng nghiêm hô khẩu lệnh: “Tiểu đội x” . Khi nghe dứt động lệnh “tập hợp”, toàn tiểu đội nhanh chóng im lặng chạy đến vị trí tập hợp, đứng về bên trái tiểu đội trưởng thành một hàng ngang dãn cách 70 cm tính từ giữa 2 gót chân của hai người đứng cạnh nhau hoặc cách 20 cm (khoảng cách 2 cánh tay của hai người đứng cạnh nhau ). Khi đã có 2 - 3 chiến sỹ đứng vào hàng, tiểu đội trưởng làm động tác quay nửa bên trái về đứng chính giữa phía trước cách hàng từ 3 - 5 bước để đôn đốc tiểu đội tập hợp. Từng người khi đã đứng vào hàng phải nhanh chóng dóng hàng đúng dãn cách rồi đứng nghỉ.

Bước 2: Điểm số

             Khẩu lệnh: “Điểm số” (chỉ có động lệnh, không có dự lệnh).

          Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “điểm số”, các chiến sỹ từ phải qua trái điểm số cho đến hết tiểu đội. Khi điểm số quay mặt sang trái 450 , điểm số xong quay mặt trở lại; người cuối cùng không quay mặt, sau khi điểm số của mình xong thì hô hết (chú ý khi điểm số phải to, rõ, dứt khoát, liên tục).

Bước 3: Chấn chỉnh đội ngũ. Trước khi chấn chỉnh đội ngũ tiểu đội trưởng phải hô khẩu lệnh: “nghiêm”cho tiểu đội đứng nghiêm.

Khẩu lệnh: “Nhìn bên phải (trái) - thẳng” có dự lệnh và động lệnh

Động tác: khi nghe dứt động lệnh “thẳng”, trừ chiến sỹ đầu hàng làm chuẩn các chiến sỹ còn lại đều phải quay mặt về bên phải (tri) hết cỡ dóng hàng và giữ dãn cách. Khi tiểu đội đã dóng hàng xong, tiểu đội trưởng hô: “thôi”, dứt động lệnh “thôi” tất cả tiểu đội quay mặt về vị trí cũ đứng nghiêm không xê dịch vị trí đứng. Tiểu đội trưởng quan sát dãn cách của các chiến sỹ xong quay nửa bên trái đi đều về đầu hàng cách 2 -3 bước, để kiểm tra hàng ngang xem đã thẳng chưa. Nếu thấy chưa được thì dng khẩu lệnh: “Đồng chí X hoặc số X - lên (xuống)”. Thứ tự sửa cho người đứng gần người làm chuẩn trước, cũng có thể sửa cho 2 – 3 người cùng một lúc. Khi tiểu đội đ đứng thẳng hàng, tiểu đội trưởng hô “được”, rồi về vị trí chỉ huy. Nếu lấy người đứng giữa làm chuẩn thì tiểu đội trưởng phải hô khẩu lệnh “Đồng chí (số) X làm chuẩn”. Chiến sỹ X nghe gọi, đứng nghiêm trả lời: “Có” và giơ tay trái lên. Tiểu đội trưởng hô tiếp: “Nhìn giữa – thẳng”, các chiến sỹ đứng hai bên đánh mặt về phía người làm chuẩn để dóng hàng. Chiến sỹ làm chuẩn sau khi nghe động lệnh “Thẳng”, khoảng 5 giây thì bỏ tay xuống. Động tác chỉnh hàng của tiểu đội trưởng như khi nhìn bên phải hoặc bên trái thẳng.

Bước 4: Giải tán.

Khẩu lệnh: “Giải tán” (không có dự lệnh).

Động tác: Khi nghe dứt động lệnh “giải tán” mọi người trong tiểu đội nhanh chóng tản ra, nếu đang ở tư thế nghỉ phải rút chân về tư thế đứng nghiêm rồi mới giải tán.

 

 

 

 

 

Đội hình tiểu đội một hàng ngang

 

  1. Đội hình tiểu đội hai hàng ngang

Ý nghĩa: đội hình tiểu đội một hàng ngang thường dùng trong học tập, sinh hoạt, kiểm tra, khám súng, giá súng.

Thứ tự thực hiện: Thực hiện theo thứ tự 4 bước giống cách tập trung tiểu đội 1 hàng ngang.

  1. Những điểm khác:
  • Khẩu lệnh: “Tiểu đội thành hai hàng ngang - tập hợp”

Vị trí đứng trong đội hình các số lẻ đứng trên, các số chẵn đứng hàng dưới (số chẵn, lẻ căn cứ vào điểm số tiểu đội một hàng ngang).

Đội hình tiểu đội 2 hàng ngang không điểm số

Khi dóng hàng các chiến sỹ vừa phải dóng hàng ngang vừa đánh mắt dóng hang dọc, hàng dưới cách hàng trên 1 mét.

 

 

 

 

 

 

Đội hình tiểu đội hai hang ngang.

 

 

 

  1. ĐỘI HÌNH TIỂU ĐỘI HÀNG DỌC.
  2. Đội hình tiểu đội một hàng dọc.

Ý nghĩa: Đội hình tiểu đội một hàng dọc thường dùng trong hành tiến trong đội hình tập hợp cả trung đội, đại đội khi tập trung sinh hoạt, học tập.

Thứ tự thực hiện: Thực hiện theo thứ tự 4 bước:

Khẩu lệnh: “Tiểu đội thành một hàng dọc - tập hợp” có dự lệnh và động lệnh. “Tiểu đội thành một hàng dọc” là dự lệnh; “Tập hợp” là động lệnh.

Động tác như đội hình tiểu đội hàng ngang. Chỉ khác: toàn tiểu đội đứng sau tiểu đội trưởng thành một hàng dọc, người sau cách người trước 1 mét. Tiểu đội trưởng quay nửa bên trái và đi đều về phía trước, chếch về bên trái đội hình cách 3 -5 bước quay vào đội hình để đôn đốc tập hợp.

Bước 2: Điểm số. Khẩu lệnh và động tác giống như tiểu đội một hàng ngang, chỉ khác: khi quay mặt, phải quay hết cỡ sang bên trái và điểm số từ trên xuống dưới.

Bước 3: Chỉnh đốn hàng ngũ. Trước khi chỉnh đốn phải hô khẩu lệnh “Nghiêm” cho tiểu đội đứng nghiêm.

Khẩu lệnh: “Nhìn trước-thẳng” có dự lệnh và động lệnh.

Khi nghe dứt động lệnh “thẳng” trừ chiến sỹ số 1 làm chuẩn còn các chiến sỹ khác dóng hàng dọc, nhìn thẳng giữa gáy người đứng trước mình (không nhìn thấy gáy người thứ hai đứng trước mình), tự xê dịch sang trái, phải để giữ hàng thẳng, tự xê dịch lên xuống để giữ đúng cực ly 1 mét.

Khi tiểu đội đã gióng hàng xong, tiểu đội trưởng hô: “Thôi”, toàn tiểu đội vẫn đứng nghiêm, tiểu đội trưởng quay nửa bên trái đi đều về trước chính giữa đội hình cách 2 -3 bước, nhìn vào đội hình để kiểm tra hàng dọc.

Nếu chiến sỹ nào chưa thẳng hàng dùng khẩu lệnh để gọi tên hay số để chỉnh hàng lần lượt từ trên xuống khi nào được thì hô: “được”. Khi sửa xong, tiểu đội trưởng về vị trí chỉ huy bên trái phía trước đội hình cách 3 -5 bước.

Bước 4: Giải tán (khẩu lệnh động tác như tiểu đội một hàng ngang).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đội hình tiểu đội 1 hàng dọc

 

  1. Đội hình tiểu đội 2 hàng dọc

Ý nghĩa: Đội hình tiểu đội một hàng dọc thường dùng trong hành tiến trong đội hình tập hợp cả trung đội, đại đội khi tập trung sinh hoạt, học tập.

Thứ tự các bước thực hiện giống như đội hình tiểu đội một hàng dọc, chỉ khác:

- Khẩu lệnh: “Tiểu đội thành 2 hàng dọc - tập hợp”

- Vị trí đứng: số lẻ đứng một hàng dọc bên phải, số chẵn một hàng dọc bên trái.

  • Số lẻ, số chẵn căn cứ vào điểm số tiểu đội một hàng dọc Đội hình tiểu đội 2 hàng dọc Đội hình tiểu đội hai hàng dọc không điểm số.

Khi dóng hàng các chiến sỹ số chẵn vừa phải dóng hàng dọc vừa phải dóng hàng ngang.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  1. ĐỘI HÌNH TRUNG ĐỘI
  2. ĐỘI HÌNH TRUNG ĐỘI HÀNG NGANG
  3. Đội hình trung đội một hàng ngang
  4. a) Ý nghĩa: Đội hình trung đội một hàng ngang thường dùng trong huấn luyện, nói chuyện thời sự, điểm danh, kiểm tra, điểm nghiệm, khám súng, giá súng…
  5. b) Thực hiện thứ tự 4 bước: Tập hợp, điểm số, chỉnh đốn hàng ngũ, giải tán
  • Khẩu lệnh: “Trung đội thành một hàng ngang- tập hợp”
  • Động tác tập hợp cơ bản giống như tiểu đội một hàng ngang, chỉ khác: Vị trí tiểu đội 2 đứng bên trái tiểu đội 1, tiểu đội 3 đứng bên trái tiểu đội 2, mỗi tiểu đội thành một hàng ngang.
  • Điểm số: Có 2 cách điểm số: Điểm số theo từng tiểu đội: Khẩu lệnh “Từng tiểu đội điểm số”. Từng tiểu đội điểm số theo thứ tự: từ tiểu đội 1 đến tiểu đội 3 (tiểu đội trưởng không điểm số). Điểm số toàn trung đội: Khẩu lệnh: “Điểm số”, dứt khẩu lệnh lần lượt điểm số theo thứ tự và nối tiếp nhau từ tiểu đội 1, tiểu đội 2 đến tiểu đội 3, kể cả các tiểu đội trưởng. Người đứng cuối cùng của tiểu đội 3 sau khi điểm số xong hô: “Hết”.

Chỉnh đốn hàng ngũ: Khẩu lệnh, động tác cơ bản giống như tiểu đội một hàng ngang; chỉ khác: trung đội trưởng phải quay nửa bên trái, chạy đều về vị trí chính giữa phía trước cách cách đội hình 5 - 8 bước để chỉnh đốn hàng. 

  1. Đội hình trung đội hai hàng ngang

Ý nghĩa và các bước thực hiện trên cơ sở tiểu đội hai hàng ngang.

Khẩu lệnh: “Trung đội thành hai hàng ngang – tập hợp”

Tiểu đội 2 đứng bên trái tiểu đội 1, tiểu đội 3 đứng bên trái tiểu đội 2; mỗi tiểu đội thành hai hàng ngang, số lẻ đứng trên, số chẵn đứng dưới. Vị trí chỉ huy của trung đội trưởng chính giữa và cách đội hình 5 - 8 bước.

Đội hình trung đội hai hàng ngang không điểm số

Chỉnh đốn hàng ngũ: Khẩu lệnh và đông tác giống như đội hình trung đội một hàng ngang; chỉ khác: cả 2 hàng đều phải quay mặt và dóng hàng, chiến sỹ đứng hàng dưới phải vừa dóng hàng ngang vừa dóng hàng dọc.

  1. Đội hình trung đội ba hàng ngang.
  2. a) Ý nghĩa và các bước thực hiện trên cơ sở đội hình tiểu đội một hàng ngang.

Khẩu lệnh: “Trung đội thanh ba hàng ngang – tập hợp”

Động tác cơ bản như trung đội 1 hàng ngang, chỉ khác:

Vị trí tiểu đội 2 đứng sau tiểu đội 1, tiểu đội 3 đứng sau tiểu đội 2, mỗi tiểu đội thành một hàng ngang. Khoảng cch giữa hng sau với hàng trước là 1m.

Khi điểm số: Khẩu lệnh: “Điểm số”, chỉ có tiểu đội 1 điểm số, cac tiểu đội trưởng không điểm số. Tiểu đội 2, tiểu đội 3 không điểm số mà người đứng cuối hàng của tiểu đội lấy số của tiểu đội 1 để tính số của tiểu đội mình bo co. tiểu đội 1 có 7 người; tiểu đội 2 có 6 người; tiểu đội 3 có 8 người. Khi báo cáo, thì người đứng cuối hàng của tiểu đội 2 báo “Tiểu đội 2 thiếu 1”. Người đứng cuối hàng của tiểu đội 3 báo “Tiểu đội 3 thừa 1”.

Các chiến sỹ trong hàng thứ 2 và thứ 3 phải vừa dóng hàng ngang vừa dóng hàng dọc.

  1. TRUNG ĐỘI HÀNG DỌC
  2. Đội hình trung đội một hàng dọc.
  3. a) Ý nghĩa: Đội hình trung đội một hàng dọc thường dùng để hành quân, di chuyển ở ngoài bi tập được nhanh chóng, thuận tiện.
  4. b) Thực hiện thứ tự 4 bước như các đội hình khac

- Khẩu lệnh: “Trung đội thành một hàng dọc - tập hợp”

- Động tác thực hiện trên cơ sở đội hình tiểu đội một hàng dọc. Trung đội thành một hàng dọc, thứ tự tiểu đội 1 đến tiểu đội 3, mỗi tiểu đội thành một hàng dọc. Đội ngũ đơn vị 7/9 - Điểm số giống như đội hình trung đội một hàng ngang, chỉ khác là điểm số theo đội hình hàng dọc.

  1. Đội hình trung đội hai hàng dọc.
  2. a) Ý nghĩa: Đội hình trung đội một hàng dọc thường dùng để hành quân, di chuyển ở ngoài bi tập được nhanh chóng, thuận tiện.
  3. b) Các bước thực hiện trên cơ sở đội hình tiểu đội hai hàng dọc.

 - Khẩu lệnh: “Trung đội thành hai hàng dọc - tập hợp”

Động tác thực hiện trên cơ sở đội hình tiểu đội hai hàng dọc. Đội hình thành hai hàng dọc thứ tự tiểu đội 1, tiểu đội 2 đến tiểu đội 3, mỗi tiểu đội thành hai hàng dọc.

Chỉnh đốn hàng ngũ, cơ bản như đội hình tiểu đội hai hàng dọc, chỉ khác: khi dứt động lệnh “thẳng”, các tiểu đội trưởng qua trái ½ bước để đứng trước chính giữa đội hình tiểu đội của mình.

  1. Đội hình trung đội ba hàng dọc.
  2. a) Ý nghĩa: Đội hình trung đội một hàng dọc thường dùng để hành quân, di chuyển ở ngoài bãi tập được nhanh chóng, thuận tiện.
  3. b) Các bước thực hiện trên cơ sở đội hình tiểu đội một hàng dọc.

Khẩu lệnh: “Trung đội thành ba hàng dọc - tập hợp”

Động tác thực hiện trên cơ sở đội hình tiểu đội một hàng dọc, vị trí tiểu đội 2 đứng bên trái tiểu đội 1, tiểu đội 3 đứng bên trái tiểu đội 2, mỗi tiểu đội thành 1 hàng dọc.

Điểm số: Khẩu lệnh, động tác giống như điểm số của trung đội ba hàng ngang.

Khẩu lệnh và động tác chỉnh đốn hàng ngũ như trung đội một (hai) hàng dọc

 

Bài 6: Hiểu biết chung về bản đồ địa hình quân sự

MỞ ĐẦU

Bản đồ địa hình là sự thể hiện những vấn đề cần thiết về bề mặt trái đất từ mặt cầu cong lên mặt phẳng giấy. Nó rất quan trọng đối với tất cả các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội,… Đặc biệt trong lĩnh vực quân sự bản đồ là phương tiện để người chỉ huy nghiên cứu soạn thảo các văn kiện chiến đấu bảo đảm chính xác, kịp thời sát với thực tế. Chính vì vậy đòi hỏi người chỉ huy phải có kiến thức nhất định về bản đồ địa hình để nghiên cứu, vận dụng trong quá trình huấn luyện và chiến đấu.Phạm vi bài giảng chỉ đề cập một cách khái quát cơ bản những yếu tố toán học về bản đồ, các phép chiếu đồ, tỷ lệ bản đồ, lưới tọa độ. Đi sâu hơn về phần chia mảnh, ghi số hiệu, chắp ghép, bảo quản sử dụng bản đồ.

Bài giảng được biên soạn dựa theo tài liệu:

Địa hình quân sự Cục bản đồ BTTM xuất bản 1987.

Tài liệu tập huấn ĐHQS của Trường SQLQII năm 2000.

Tài liêu tập huấn ĐHQS của Cục bản đồ - BTTM năm 2006.

  1. CƠ SỞ TOÁN HỌC CỦA BẢN ĐỒ:
  2. TỶ LỆ BẢN ĐỒ

1.Khái niệm bản đồ địa hình:

Bản đồ là hình ảnh thu nhỏ và khái quát hóa một phần mặt đất cong lên mặt giấy phẳng theo những quy luật toán học nhất định. Trên bản đồ các yếu tố về thiên nhiên, kinh tế, văn hóa và xã hội được thể hiện bằng hệ thống các ký hiệu. Những yếu tố này được lựa chọn lấy bỏ, tổng hợp tương ứng với từng lượng dung nạp của từng loại bản đồ và từng loại tỷ lệ.

  1. Công thức tỷ lệ:

Khái niệm: là tỷ số xác định mức độ thu nhỏ của bề mặt trái đất (địa hình) khi biểu thị lên mặt phẳng bản đồ, hay là con số so sánh giữa độ dài trên bản đồ với ngoài thực địa.

  • Tỷ lệ bản đồ được biểu diễn dưới dạng phân số
  • Tử số chỉ độ dài đo được trên bản đồ, mẫu số chỉ M lần đơn vị độ dài tương ứng trên thực địa.
  • Tỷ lệ bản đồ được biểu diễn dưới ba dạng sau:
  • - Tỷ lệ số: Là tỷ lệ ở dạng phân số, biểu thị mức độ thu nhỏ các yếu tố địa hình, địa vật trên thực địa vẽ trên bản đồ. Để tiện tính toán, mẫu số tỷ lệ bản đồ thường được xác định bằng những số chẵn như 10.000, 25.000, 50.000, 100.000… tỷ lệ số thường được ghi ở dưới khung nam mỗi mảnh bản đồ, có 3 cách viết.
  • Ví dụ: Bản đồ tỷ lệ một phần hai mươi lăm ngàn có thể viết.
  • 1:25.000; 1/25.000;
  • Để chỉ tỷ lệ bản đồ có thể dùng một trong ba cách viết trên. Khi biểu thị trên bản đồ thường dùng cách viết thứ nhất.
  • - Tỷ lệ chữ: Tỷ lệ chữ nói rõ một đơn vị độ dài Centimet (cm) trên bản đồ ứng với đơn vị độ dài bằng mét trên thực địa. Ở thước tỷ lệ thẳng của mỗi mảnh bản đồ có ghi tỷ lệ chữ:
  • Ví dụ: Bản đồ tỷ lệ 1:25.000 có ghi 1cm bằng 250m thực địa.
  • - Tỷ lệ thước: Trên mỗi tờ bản đồ có một thước tỷ lệ thẳng . Thước tỷ lệ thước giúp đo đạc và tính toán thuận tiện, vì độ dài trên thước đã được tính ra cự ly thực địa (phần cấu tạo và các sử dụng sẽ được trình bày ở nội dung phần sau).
  • - Công thức:
  • Công thức:
  • Tỷ lệ bản đồ với thực địa được biểu thị bằng công thức sau:
  • Trong đó: d là cự ly đo trên bản đồ
  • D là cự ly tính theo thực địa
  • M là mẫu số tỷ lệ.
  1. Cơ sở toán học của bản đồ:

Để bản đồ có độ chính xác đáp ứng yêu cầu sử dụng, đồng thời có thể ghép nhiều mảnh với nhau mà vẫn giữ được tính nhất quán cao thì đo vẽ và thành lập bản đồ phải dựa trên cơ sở toán học vững chắc. Nội dung cơ sở toán học bản đồ gồm 2 vấn đề cơ bản:

Quả đất được nghiên cứu, xác định hình dáng kích thước để biểu diễn dưới dạng một biểu thức toán học, dựa vào đó mà xây dựng phương pháp đo, cách suy giải và xử lý kết quả đo đạc trên mặt đất tự nhiên.

Nghiên cứu và quy định các phương pháp chiếu hình để chuyển kết quả đo đạc trên mặt đất lên mặt phẳng với số sai nhỏ nhất.

Hai nội dung cơ bản này quy định các phương pháp đo vẽ và thành lập bản đồ quy định sử dụng tọa độ và độ cao, cách chia mảnh và đánh số bản đồ.

  • CÁC PHÉP CHIẾU ĐỒ:

Có nhiều phương pháp chiếu đồ khác nhau, ở bài này chúng tôi chỉ trình bày 2 phương pháp cơ bản đó là chiếu Gauss và chiếu đồ U.T.M

  1. Phương pháp chiếu Gauss:

Dùng hình ống ngang vuông góc với trục trái đất, vòng tiếp xúc giữa hình ống với mặt trái đất là một kinh tuyến.

Theo phương pháp này trái đất (ellípsoid) được chia thành 60 múi, mỗi múi rộng 60 kinh đánh số múi từ 1 đến 60, từ kinh tuyến gốc Greenwich về phía Đông. Lãnh thổ Việt Nam nằm giữa kinh tuyến 1020 đến kinh tuyến 1100 thuộc 2 múi chiếu 48 và 49. Theo phép chiếu đồ Gauss, mỗi múi chiếu hình thành một hệ toạ độ vuông góc độc lập. Trục Bắc của hệ này ký hiệu là trục X, là hình chiếu của kinh tuyến trục. Trục Đông ký hiệu là trục Y, là hình chiếu của xích đạo. Giao điểm của hai trục này là điểm gốc của hệ toạ độ vuông góc. Toạ độ X của một điểm mặt đất tính theo trục Bắc gọi là giá trị Bắc, tọa độ Y tính theo trục Đông gọi là giá trị Đông. Để tránh số âm, chọn tọa độ X = 0 km, Y = 500 km.

  1. Phương pháp chiếu U.T.M:

          Hiện nay ngoài hệ thống bản đồ Gauss, trong quân đội và một số cơ quan nhà nước còn sử dụng rộng rãi loại bản đồ UTM tái bản do Cục Bản đồ Bộ Tổng tham mưu phát hành. UTM là chữ viết tắt của phép chiếu Universal Transvesal Merecator's.

Phép chiếu UTM về nguyên tắc căn bản, cơ sở nội dung giống như phép chiếu Gauss, là phép chiếu đồ giữ góc lồng trụ ngang và cùng dạng công thức với lưới chiếu đồ giữ góc Gauss.

  XUTM = 0,9996 X;       YUTM = 0,9996 YG

Ưu điểm: Như lưới chiếu Gauss, phần sai số tỷ lệ chiều dài và sai số diện tích (P) lưới chiếu UTM nhỏ hơn; lưới chiếu UTM khác với lưới chiếu Gauss: Trong lưới chiếu UTM hình trụ ngang không tiếp xúc như lưới chiếu Gauss mà cắt Elipxoit (trái đất) ở hai cát tuyến, cách đều kinh tuyến giữa 180km về phái Đông và Tây (Hình 3 a,b).

 

 

 

 

 

 

 

                                                           

 

Hình 3: Phương pháp chiếu UTM  (a,b)

 

+ So sánh phép chiếu UTM khác với phép chiếu hình Gauss:

Mặt chiếu hình không tiếp xúc với kinh tuyến trục mà tiếp xúc với kinh tuyến hai bên cách đều kinh tuyến trục 180km.

Phép chiếu hình UTM Elipxoit (trái đất) được quy chiếu thành 60 múi nhưng đánh số múi toạ độ từ múi số 1- 60 kể từ kinh tuyến 1800 về hướng Đông.

Hệ toạ độ vuông góc áp dụng cho múi chiếu hình, chỉ áp dụng từ 80 vĩ Nam đến 840 vĩ Bắc. Giao điểm của hai trục này là điểm gốc của hệ trục toạ độ với X = 0 Y = 500km đối với Bắc bán cầu X = 10.000km; Y = 500km đối với Nam bán cầu. hép chiếu hình U.T.M là phép chiếu hình giữ góc, mặt chiếu hình là mặt hình trụ ngang. Chiếu hình U.T.M khác chiếu hình Gauss ở những điểm sau:

Mặt chiếu hình không tiếp xúc với kinh tuyến trục mà cắt ellípsoid ở 2 kinh tuyến cách đều kinh tuyến trục 180 km về 2 phía Đông và Tây. Bởi vậy trên kinh tuyến trục tỷ lệ chiếu hình là 0.9996, trên hai cát tuyến tỷ lệ chiếu hình bằng 1.

- Theo phương pháp chiếu hình U.T.M ellípsoid cũng được chia thành 60 múi nhưng đánh số múi tọa độtừ 1 đến 60 kể từ kinh tuyến 180 về hướng Đông. Hệ tọa độ vuông góc của múi chiếu hình chỉ áp dụng cho khu vực từ 800 vĩ Nam đến 840 vĩ Bắc. Trục Bắc của hệ tọa độ là hình chiếu của kinh tuyến trục, trục Đông là hình chiếu của xích đạo. Giao điểm của hai trục này là điểm gốc của hệ tọa độ với trị số X = 0; Y = 500 km đối với Bắc bán cầu và trị số X = 10 000 km; Y = 500 km đối với Nam bán cầu.

  1. CHIA MẢNH, ĐÁNH SỐ

Bản đồ địa hình Gauss lấy kinh, vĩ tuyến làm biên khung và lấy mảnh bản đồ tỷ lệ 1:1000000 làm cơ sở chia mảnh, đánh số những mảnh bản đồ tỷ lệ lớn hơn. Kích thước mảnh bản đồ 1:1000000 là 60 kinh X 40 vĩ. Ở khu vực 150 vĩ nó bao trùm diện tích mặt đất khoảng 280.000 km2.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:1.000.000:

Dọc theo kinh tuyến chia

Trái Đất thành 60 cột, đánh số theo thứ tự từ 1 đến 60, cột 1 tính từ kinh độ 1800 tới kinh độ tây 1740, cột 2 từ kinh độ tây 1740 đến kinh độ tây 1680…, cứ tiếp tục như vậy tới cột thứ 60 từ kinh độ đông 1740 tới kinh độ 1800. Như vậy, số thứ tự của cột chênh lệch với số thứ tự của múi là 30 đơn vị.

Theo vĩ tuyến, chia Trái đất ra thành các đai, mỗi đai có độ lớn là 40 bắt đầu từ xích đạo về hai cực, các đai được ký hiệu bằng các chữ cái La tinh in hoa theo vần (gồm 22 chữ cái) từ A, B, C… đến V trừ hai cực không có ký hiệu.

Diện tích mặt đất của mỗi ô hình thang cong theo cách chia như trên, được biểu thị lên bản đồ theo tỷ lệ 1:1.000.000, gọi là mảnh bản đồ một triệu.

Như vậy, khung của mảnh bản đồ 1:1.000.000 có kích thước chiều ngang là 60 và chiều dọc là 40.

Số hiệu của mỗi mảnh được gọi theo tên của đai ngang và cột dọc.

Ví dụ: mảnh bản đồ tỷ lệ 1:1000000 có thành phố Hà Nội mang số hiệu: F-48.

Việt Nam nằm trong các đai ngang và cột dọc.

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:500.000:

          Căn cứ: Dựa vào mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 1.000.000 để chia.

Cách chia và đánh số:

Chia mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 1.000.000 thành 4 phần bằng nhau, đánh số thứ tự bằng chữ cái in hoa A, B, C, D từ trái qua phải, từ trên xuống dưới. Mỗi phần được chia là mảnh bản đồ tỷ lệ1:500.000

Ghi số hiệu: Ghi vào sau số hiệu của mảnh bản đồ 1: 1.000.000 ký hiệu riêng của phần được chia. Kích thước: 30 x 20

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:200.000:

Căn cứ: dựa vào mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 1.000.000 để chia.

Cách chia và đánh số:

Chia mảnh bản đồ 1: 1.000.000 thành 36 phần bằng nhau, đánh số thứ tự bằng chữ số La Mã từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Mỗi phần được chia là mảnh bản đồ 1: 200.000.

Ghi số hiệu: ghi vào sau số hiệu của mảnh bản đồ 1: 1.000.000 và ký hiệu riêng của phần được chia. Kích thước: 10x 40'

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:100.000:

Căn cứ: Dựa vào mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 1.000.000 để chia.

Cách chia mảnh và đánh số:

Chia mảnh bản đồ tỷ lệ 1:1.000.000 ra thành 144 phần bằng nhau, đánh số thứ tự bằng chữ số ả Rập từ trái sang phải, từ trên xuống dưới từ 1 đến 144, mỗi phần được chia là mảnh bản đồ tỷ lệ 1:100.000.

Ghi số hiệu: ghi vào sau số hiệu mảnh bản đồ 1:1.000.000 và ký hiệu riêng của phần được chia. Kích thước: 30'x20'

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:50.000:

Căn cứ: dựa vào mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 100.000 để chia.

Cách chia và đánh số:

Chia mảnh bản đồ 1: 100.000 thành 4 phần bằng nhau, đánh số thứ tự bằng chữ cái in hoa A,B,C,D từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Mỗi phần được chia là mảnh bản đồ 1:50.000.

Ghi số hiệu:Ghi vào sau số hiệu của mảnh bản đồ 1: 100.000 và ký hiệu riêng của phần vừa mới được chia. Kích thước: 15' x 10'

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:25.000:

Căn cứ: dựa vào mảnh bản đồ 1: 50.000 để chia.

Cách chia và đánh số:

Chia mảnh bản đồ 1: 50.000 thành 4 phần bằng nhau. Đánh số thứ tự bằng chữ cái in thường a,b,c,d từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Mỗi phần được chia là mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 25.000.

Ghi số hiệu: ghi sau số hiệu của mảnh bản đồ 1: 50.000 và ký hiệu riêng của phần vừa mới được chia. Kích thước: 7,5’x 5'

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:10.000:

-Căn cứ: Dựa vào mảnh bản đồ 1: 25.000 để chia.

Cách chia và đánh số: Chia mảnh bản đồ 1: 25.000 ra thành 4 phần bằng nhau. Đánh số thứ tự bằng chữ số ả Rập 1,2,3,4 từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.

Mỗi phần được chia là mảnh bản dồ tỷ lệ 1:10.000.

Ghi số hiệu: Ghi vào sau số hiệu mảnh bản đồ 1: 25.000 và ký hiệu riêng của phần vừa mới được chia. Kích thước: 3' 45'' x 2' 30''

  1. CHIA MẢNH, GHI SỐ HIỆU BẢN ĐỒ U.T.M:
  2. Bản đồ tỷ lệ 1:1.000.000:

Cơ bản giống như cách chia mảnh bản đồ Gauss, chỉ khác:

+ Khi đánh số đai chỉ đánh số từ A đến U.

+ Mảnh bản đồ thuộc Bắc bán cầu thì thêm chữ  N vào trước ký hiệu đai Nam bán

cầu thì thêm chữ S vào trước đai.

Ví dụ: mảnh bản đồ tỷ lệ: 1.000.000 khu vực Hà Nội có số hiệu NF - 48

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:500.000:

Như bản đồ Gauss chỉ khác số thứ tự A, B, C, D đánh theo chiều kim đồng hồ

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:250.000: (Bản đồ UTM không chia mảnh 1:200.000)

          - Căn cứ: dựa vào mảnh 1: 1.000.000 để chia.

- Cách chia và đánh số:

Chia mảnh 1:1.000.000 thành 16 phần bằng nhau, đánh số bằng chữ số ả Rập từ 1đến 16 theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Mỗi phần được chia là mảnh bản đồ tỷ lệ 1:250.000.

Ghi số hiệu: Ghi vào sau số hiệu mảnh 1: 1.000.000 và ký hiệu riêng của phần vừa được chia. Kích thước: 10 30' x 10

  1. Bản đồ tỷ lệ 1:100.000:

Bản đồ địa hình UTM tỷ lệ 1: 100.000 được chia và đánh số riêng không liên quan đến bản đồ tỷ lệ 1: 1.000.000. Cụ thể phương pháp chia như sau:

Bản đồ UTM lấy giao tuyến của đường kinh tuyến 750 kinh Đông và 40 vĩ Nam làm gốc toạ độ tính lên phía Bắc và sang Đông, cứ 30' đánh 1 đường dọc và 1 đường ngang.

  • Ký hiệu đường dọc từ 01, 02, 03 …99
  • Ký hiệu đường ngang từ: 00, 01, 02 …99
  • Ghi số hiệu: lấy 4 số của trục dọc và trục ngang đặt tên cho mảnh.
  • Kích thước: 30' x 30'
  1. Bản đồ tỷ lệ 1:50.000:
  • Căn cứ: Dựa vào mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 100.000 để chia.

Cách chia mảnh và đánh số: Chia mảnh 1: 100.000 thành 4 ô bằng nhau đánh số bằng chữ số La Mã I,II,III, IV. Bắt đầu từ góc trên bên phải theo chiều kim đồng hồ. Mỗi ô được chia là mảnh bản đồ tỷ lệ 1:50.000.

Ghi số hiệu: Ghi vào sau số hiệu mảnh 1: 100.000 và ký hiệu riêng của ô vừa mới được chia.

Kích thước: 15' x 15'.

  1. Chia mảnh bản đồ 1:25000:

Căn cứ: dựa vào mảnh bản đồ 1: 50.000 để chia.

Cách chia và đánh số:

Chia mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 50.000 ra thành 4 ô bằng nhau. Đánh theo ký hiệu hướng địa dư NE (ĐB), SE (ĐN), NW (TB), SW (TN). Mỗi ô được chia là mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000.

Ghi số hiệu: Ghi vào sau số hiệu mảnh 1: 50.000 và ký hiệu riêng của mảnh vừa chia. Kích thước: 7' 30'' x 7' 30''

PHÂN LOẠI, CHẮP GHÉP, BẢO QUẢN BẢN ĐỒ

  1. PHÂN LOẠI:

- Bản đồ tỷ lệ lớn như loại 1:10.000; 1:25.000; 1:50.000.

- Bản đồ tỷ lệ trung bình như loại 1:100.000; 1200.000; 1:250.000.

- Bản đồ tỷ lệ nhỏ như loại 1:500.000; 1:1.000.000.

Trong đó: bản đồ tỷ lệ lớn thường dùng cho cấp chiến thuật, bản đồ tỷ lệ trung bình thường dùng cho cấp chiến dịch.

  1. CHẮP GHÉP BẢN ĐỒ:

Ý nghĩa: để nghiên cứu tác nghiệp khi tác chiến ở địa hình rộng lớn, để bảo quản được dễ dàng trong quá trình sử dụng.

Căn cứ chắp ghép bản đồ:

Dựa vào bảng chắp ghép ở khung Nam bản đồ.

Dựa vào số hiệu ở khung Bắc bản đồ

Dựa vào địa hình.

Nguyên tắc chắp ghép: Tờ trên đè tờ dưới, tờ trái đè tờ phải.

Khi xén: tờ trên xén ở phần mép khung (viền trắng) ở khung Nam bản đồ, tờ trái xén ở phần mép khung (viền trắng) ở khung Đông bản đồ.

Khi dán: dùng hồ quét đều ở phần viền trắng của tờ bị đè lên. Khung Bắc của tờ dưới, khung Tây của tờ phải. Sau đó điều chỉnh cho các đường ô vuông trùng khớp nhau rồi vuốt nhẹ cho phẳng bản đồ.

(Nếu dán nhiều mảnh bản đồ thì ta phải dán thành từng băng, sau đó ghép lại theo nguyên tắc trên)

- Cách gấp bản đồ:

Căn cứ vào nhiệm vụ để gấp cho phù hợp. Khi gấp mặt công tác để ra ngoài, sau đó gấp thành hình dích dắc theo (kiểu hình lò xo).

  1. BẢO QUẢN BẢN ĐỒ:

Để bản đồ nơi khô ráo (tránh ẩm ướt).

Dùng tẩy để tẩy khi cần, không dùng dao để cạo bản đồ.

Sử dụng bút chì đen, nét bút vót nhọn.

Khi vẽ phải thận trọng, không để rách bản đồ.

Chấp hành nghiêm quy định bảo mật tài liệu.

  1. SỬ DỤNG BẢN ĐỒ

Xác định toạ độ, chỉ thị mục tiêu.

  1. TỌA ĐỘ SƠ LƯỢC

Trong ô vuông tọa độ chỉ có 1 đối tượng mục tiêu M hoặc nhiều mục tiêu khác nhau. Xác định tọa độ: xác định tọa độ sơ lược phải tìm 2 số cuối cùng của đường hoành độ (khung Đông Tây) và 2 số cuối của đường tung độ (khung Bắc Nam). Tìm giao điểm của đường hoành độ nối đường tung độ trong ô vuông tọa độ có chứa M cần tìm. M nằm phía trên của đường kẻ ngang và bên phải của đườngkẻ dọc.

VD: M(2536)

B.TỌA ĐỘ Ô 4

Cách xác định tọa độ tọa độ ô 4 chia ô vuông tọa độ sơ lược thành 4 phần bằng nhau, đánh dấu bằng chữ cái in hoa (từ trái qua phải, từ trên xuống dưới).

VD: M(2536B)

C.TỌA ĐỘ Ô 9

Chia ô vuông tọa độ sơ lược thành 9 phần bằng nhau, đánh dấu các ô bằng chữ Ả Rập từ 1 đến 9 theo quy tắc số 1 góc Tây Bắc thuận theo chiều kim đồng hồ số 9 ở ô giữa.Viết tên mục tiêu kết hợp tọa độ sơ lược của điểm đó và kí hiệu của từng ô.

VD: M(25369)

  1. TỌA ĐỘ CHÍNH XÁC

Tọa độ chính xác (TĐCX) là xác định tọa độ của 1 điểm nằm trong 1 ô vuông tọa độ, tìm ra độ chênh về mét so với hệ trục gốc hoặc tạo độ sơ lược (TĐSL) của điểm đó. Độ chênh về X gọi là x, độ chênh về Y gọi là y

Cách đo TĐCX đến mét của 1 điểm

Đo TĐCX 1 điểm trên bản đồ, lấy TĐSL (X,Y) cộng thêm phần cự li vuông góc từ vị trí điểm đo đến đường kẻ hoành độ phía dưới (x) và từ vị trí điểm đo đến đường tung độ bên trái y lấy đơn vị tính bằng mét, công thức tính TĐCX :

  • Xác định TĐCX: (M)
  • X = TĐSL + Dx
  • Y = TĐSL + Dy

Vận dụng công thức đo TĐCX một điểm nào đó, trình tự được thực hiện theo các bước sau:

Bước 1: Xác định toạ độ góc tây nam của ô vuông toạ độ có chứa điểm "M".

Bước 2: Từ điểm "M" kẻ đường vuông góc về phía nam và phía tây tới đường hoành độ và tung độ của ô vuông.

Bước 3: Đo khoảng cách từ điểm "M" đến chân đường vuông góc với hoành độ và tung độ.

Bước 4: Nhân khoảng cách đó với mẫu số tỷ lệ bản đồ

Bước 5: cộng khoản cách x vào giá trị sơ lược X và y và giá trị sơ lược Y của góc Tây Nam ô vuông nói trên

Ví dụ: Xác định tọa độ chính xác điểm M (2536). Bản đồ tỷ lệ 1: 25.000

Dx = MP x 25.000 = 1,5 x 25.000 = 375m

Dy = MQ x 25.000   = 1,6 x 25.000  = 400m

Vậy tọa độ chính xác đến mét điểm M:

X = 25km + 375m = 25.375m (Hai năm, ba bảy năm)

Y= 36 km + 400m   = 36.400m (Hai sáu, bốn không không)                             

- Chỉ thị mục tiêu

+ Viết: Viết tên mục tiêu, toạ độ X, toạ độ Y. Có thể viết theo hai cách sau:

X(M) = 25375; Y (M) = 36400 hoặc M (25375 36400).

KẾT LUẬN

Bản đồ là hình ảnh thu nhỏ và khái quát hoá một phần trái đất cong lên mặt phẳng theo những quy tắc toán học nhất định.Trên bản đồ địa hình mức độ chính xác và chi tiết phụ thuộc vào tỷ lệ bản đồ, tỷ lệ càng lớn thì mức chi tiết và độ chính xác càng cao nhưng tính khái quát lại kém đi, ngược lại bản đồ có tỷ lệ càng nhỏ thì mức độ chi tiết và độ chính xác càng kém đi nhưng tính khái quát lại càng được nâng lên.

Do vậy trong hoạt động quân sự, khi sử dụng bản đồ địa hình các đồng chí cần nghiên cứu linh hoạt, sáng tạo, vận dụng sát yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của Quân đội.

 

Bài 7: Phòng tránh địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao

NỘI DUNG

  1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, THỦ ĐOẠN ĐÁNH PHÁ VÀ KHẢ NĂNG SỬ DỤNG VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO CỦA ĐỊCH TRONG CHIẾN TRANH.
  2. Khái niệm

Vũ khí công nghệ cao là vũ khí được nghiên cứu, thiết kế, chế tạo dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, có sự nhảy vọt về chất lượng và tính năng kĩ - chiến thuật.

Khái niệm trên thể hiện những nội dung cơ bản sau:

Vũ khí công nghệ cao được nghiên cứu thiết kế chế tạo dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.

  • Có sự nhảy vọt về chất lượng và tính năng chiến - kĩ thuật.
  1. Đặc điểm của vũ khí công nghệ cao

Vũ khí công nghệ cao có một số đặc điểm nổi bật đó là:

Hiệu suất của vũ khí, phương tiện tăng gấp nhiều lần so với vũ khí, phương tiện thông thường; hàm lượng tri thức, kĩ năng tự động hoá cao; tính cạnh tranh cao, được nâng cấp liên tục, giá thành giảm.

Vũ khí công nghệ cao hay còn gọi là vũ khí “thông minh”, vũ khí “tinh khôn” bao gồm nhiều chủng loại khác nhau như: vũ khí huỷ diệt lớn (hạt nhân, hoá học, sinh học...), vũ khí được chế tạo dựa trên những nguyên lí kĩ thuật mới (vũ khí chùm tia, vũ khí laze, vũ khí chùm hạt, pháo điện từ...).

Thế kỷ XXI, vũ khí “thông minh” dựa trên cơ sở tri thức sẽ trở nên phổ biến. Điển hình là đạn pháo, đạn cối điều khiển bằng laze, rađa hoặc bằng hồng ngoại. Bom, mìn, “thông minh” kết hợp với các thiết bị trinh thám để tiêu diệt mục tiêu. Tên lửa “thông minh” có thể tự phân tích, phán đoán và ra quyết định tiến công tiêu diệt. Súng “thông minh” do máy tính điều khiển có thể tự động nhận biết chủ nhân, có nhiều khả năng tác chiến khác nhau, vừa có thể bắn đạn thông thường hoặc phóng lựu đạn. Xe tăng “thông minh” có thể vượt qua các chướng ngại vật, nhận biết các đặc trưng khác nhau của mục tiêu, mức độ uy hiếp của mục tiêu và điều khiển vũ khí tiến công mục tiêu, nhờ đó có hoả lực và sức đột kích rất mạnh,...

Tóm lại, vũ khí công nghệ cao có những đặc điểm nổi bật sau: khả năng tự động hoá cao; tầm bắn (phóng) xa; độ chính xác cao; uy lực sát thương lớn.

Thủ đoạn đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch trong chiến tranh.

- Tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao là phương thức tiến hành chiến tranh kiểu mới đồng thời là biện pháp tác chiến của địch. Thực tế trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất để chế tạo các kiểu vũ khí hiện đại hòng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh như công nghệ hồng ngoại, công nghệ nhìn đêm, công nghệ gây nhiễu. Nhiều loại vũ khí “thông minh” ra đời và được sử dụng lần đầu tiên trong chiến tranh Việt Nam...

Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Việt Nam đã chứng kiến sự thất bại thảm hại của địch trong việc sử dụng các loại vũ khí hiện đại nhất lúc đó trước trí thông minh, sự sáng tạo và lòng dũng cảm vô song của con người Việt Nam.

Chiến tranh tương lai (nếu xảy ra) đối với đất nước ta, địch sẽ sử dụng phương thức tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao là chủ yếu. Nhằm mục đích giành quyền làm chủ trên không, làm chủ chiến trường, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đánh bại khả năng chống trả của đối phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng tiến công trên bộ, trên biển, đổ bộ đường không và các hoạt động bạo loạn lật đổ của lực lượng phản động nội địa trong nước, gây tâm lí hoang mang, lo sợ trong nhân dân. Qua đó gây sức ép về chính trị để đạt mục tiêu chính trị hoặc buộc chúng ta phải chấp nhận điều kiện chính trị do địch đặt ra.

Nếu chiến tranh xảy ra trên đất nước ta, có thể xuất phát từ nhiều hướng: trên bộ, trên không, từ biển vào, có thể diễn ra cùng một lúc ở chính diện và trong chiều sâu, trên phạm vi toàn quốc với một nhịp độ cao, cường độ lớn ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc vào Việt Nam (nếu xảy ra) có thể là một giai đoạn trước khi đưa quân đổ bộ đường biển hoặc đưa quân tiến công trên bộ, với quy mô và cường độ ác liệt từ nhiều hướng, vào nhiều mục tiêu cùng một lúc. Đánh phá ác liệt từng đợt lớn, dồn dập, kết hợp với đánh nhỏ lẻ liên tục ngày đêm, có thể kéo dài vài giờ hoặc nhiều giờ, có thể đánh phá trong một vài ngày hoặc nhiều ngày.

Nghiên cứu, khảo sát một số cuộc chiến tranh cục bộ gần đây, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao ngày càng nhiều (vùng Vịnh lần thứ nhất vũ khí công nghệ cao 10%, chiến dịch Con Cáo sa mạc 50%, Nam Tư 90%).

Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh, ngày 17/1/1991 Mĩ phóng 45 quả tên lửa hành trình Tomahawk có 7 quả bị hỏng, 1 quả bị lực lượng phòng không bắn rơi còn 37 quả trúng mục tiêu, tỉ lệ : 67%. Trong chiến dịch “Con Cáo sa mạc” từ ngày 16 đến ngày 19/12/1998 Mĩ sử dụng 650 lần/chiếc máy bay phóng 415 tên lửa hành trình trong đó có 325 tên lửa Tomahawk phóng từ tàu biển, 90 quả AGM - 86 phóng từ máy bay, dự kiến khả năng 100/147 mục tiêu của Irắc bị phá huỷ. Tuy nhiên tên lửa hành trình của Mĩ và liên quân chỉ đánh trúng khoảng 20%, vì Irắc đã có kinh nghiệm phòng tránh.

Chiến tranh Irắc lần hai (2003) chỉ sau 27 ngày đêm tiến công, Mĩ, Anh đã thực hiện 34.000 phi vụ, phóng hơn 1000 tên lửa hành trình các loại, trong đó có hơn 800 Tomahawk, hơn 14.000 bom đạn có điều khiển chính xác. Từ những khảo sát thực tế trên, rút ra một số điểm mạnh và yếu như sau:

Điểm mạnh:

Độ chính xác cao, uy lực sát thương lớn, tầm hoạt động xa.

Có thể hoạt động trong những vùng nhiễu, thời tiết phức tạp, ngày, đêm, đạt hiệu quả cao hơn hàng chục đến hàng trăm lần so với vũ khí thông thường.

Một số loại vũ khí công nghệ cao được gọi là vũ khí “thông minh” có khả năng nhận biết địa hình và đặc điểm mục tiêu, tự động tìm diệt...

Điểm yếu: Thời gian trinh sát, xử lí số liệu để lập trình phương án đánh phá phức tạp, nếu mục tiêu “thay đổi” dễ mất thời cơ đánh phá.

Dựa hoàn toàn vào các phương tiện kĩ thuật, dễ bị đối phương đánh lừa

Một số loại tên lửa hành trình có tầm bay thấp, tốc độ bay chậm, hướng bay theo quy luật... dễ bị bắn hạ bằng vũ khí thông thường.

Tác chiến công nghệ cao không thể kéo dài vì quá tốn kém. Dễ bị đối phương tập kích vào các vị trí triển khai của vũ khí công nghệ cao.

Dễ bị tác động bởi địa hình, thời tiết, khí hậu dẫn đến hiệu quả thực tế khác với lí thuyết. Do đó, nên hiểu đúng đắn về vũ khí công nghệ cao, không quá đề cao, tuyệt đối hoá vũ khí công nghệ cao dẫn đến tâm lí hoang mang khi đối mặt. Ngược lại, cũng không nên coi thường dẫn đến chủ quan mất cảnh giác.

  1. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG ĐỊCH TIẾN CÔNG HOẢ LỰC BẰNG VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO
  2. Biện pháp thụ động

Phòng chống trinh sát của địch

Hệ thống trinh sát phát hiện và giám sát mục tiêu là một trong những hệ thống bảo đảm quan trọng nhất của vũ khí công nghệ cao. Muốn làm tốt công tác phòng chống trinh sát của địch, trước tiên cần xác định rõ ý thức chống trinh sát, sau đó mới áp dụng các biện pháp, phương pháp đối phó cho phù hợp, cụ thể :

+ Làm hạn chế đặc trưng của mục tiêu

Hệ thống trinh sát hiện đại khi thực hành trinh sát đều thông qua việc tìm kiếm các đặc trưng vật lí do mục tiêu bộc lộ để phát hiện. Vì vậy, sử dụng các thủ đoạn chiến thuật, kĩ thuật giảm thiểu đặc trưng vật lí của mục tiêu, xoá bỏ sự khác biệt giữa mục tiêu với môi trường xung quanh là sự vận dụng và phát triển của kĩ thuật ngụy trang truyền thống. Sử dụng các biện pháp kĩ thuật giảm bớt các đặc trưng ánh sáng, âm thanh, điện từ, bức xạ hồng ngoại... của mục tiêu là có thể giấu kín được mục tiêu.

+ Che giấu mục tiêu

Lợi dụng môi trường tự nhiên như địa hình, địa vật, rừng cây, bụi cỏ... để che giấu mục tiêu, có thể làm suy giảm thậm chí ngăn chặn được trinh sát của địch. Trinh sát bằng quang học, hồng ngoại và la de là ba kĩ thuật trinh sát chủ yếu của vệ tinh và máy bay trinh sát, các mục tiêu được che đậy, ở hang động, gầm cầu là những nơi che giấu có hiệu quả, đồng thời lợi dụng đêm tối, sương mù, màn mưa để che giấu âm thanh, ánh sáng, điện từ, nhiệt ; kiểm soát chặt chẽ việc mở máy hoặc phát xạ sóng điện từ của ra đa và thiết bị thông tin liên lạc.

+ Ngụy trang mục tiêu

Ngày nay, khi mà kĩ thuật trinh sát không ngừng phát triển thì việc sử dụng một cách khoa học các khí tài ngụy trang như màn khói, lưới ngụy trang, nghi binh, nghi trang,... là một biện pháp chống trinh sát hữu hiệu và kinh tế. Ngụy trang hiện đại là trên cơ sở ngụy trang truyền thống sử dụng kĩ thuật thay đổi hình dạng,... Thông qua việc làm thay đổi tần phổ quang học hoặc phản xạ điện từ và đặc tính bức xạ nhiệt của mục tiêu khiến chúng gần như hoà nhập vào môi trường xung quanh. Thông qua việc làm thay đổi hình thể của mục tiêu khiến mục tiêu không bị địch chú ý hoặc thông qua việc thả màn khói đặc biệt là sợi bạc,... đều có thể ngăn chặn có hiệu quả trinh sát ra đa và trinh sát hồng ngoại của đối phương.

+ Tổ chức tốt việc nghi binh đánh lừa địch

Nghi binh là hành động tạo hiện tượng giả để đánh lừa đối phương. Nếu tổ chức tạo ra các hành động tác chiến giả một cách có kế hoạch, có mục đích để phân tán, làm suy yếu khả năng trinh sát của địch, có thể làm cho địch nhận định sai, dẫn đến sai lầm từ đó ta có thể kiềm chế, điều động được địch.

Theo phạm vi không gian, có thể chia nghi binh thành các loại sau: Nghi binh chính diện, nghi binh bên sườn, nghi binh tung thâm, nghi binh trên bộ, nghi binh trên không, nghi binh trên biển, nghi binh lập thể,... Theo mục đích, có thể chia thành nghi binh để thể hiện sức mạnh, nghi binh để tỏ ra yếu kém, nghi binh để hiện thế, nghi binh tiến công, nghi binh rút lui.

Kĩ thuật quân sự hiện đại đã tạo ra nhiều thủ đoạn nghi binh mới, ngoài nghi binh về binh lực, còn có nghi binh về hoả lực, nghi binh điện tử, và các nghi binh kĩ thuật khác. Ví dụ, nghi binh vô tuyến điện bằng các phương pháp xây dựng mạng lưới vô tuyến điện giả, tổ chức các đối tượng liên lạc giả, thực hiện các cuộc thông tin liên lạc vô tuyến điện giả, phát các cuộc điện báo (điện thoại) với nội dung giả... Ngoài ra, tổ chức tốt việc bày giả, nhằm đúng vào đặc điểm và nhược điểm của hệ thống trinh sát địch, kết hợp với điều kiện tự nhiên như địa hình, địa vật, đặt các loại mục tiêu giả để làm thay đổi cục bộ nền môi trường, chiến trường, từ đó đánh lừa mê hoặc đối phương. Ví dụ, cần phải có mục tiêu giả, mục tiêu thật; khi cần di chuyển các mục tiêu cần phải tiến hành di chuyển cùng lúc cả cái thực và cái giả, và quy mô đối với cái thực và cái giả cũng phải ngang nhau.

Dụ địch đánh vào những mục tiêu có giá trị thấp làm chúng tiêu hao lớn

Lợi dụng đặc điểm của vũ khí công nghệ cao là giá thành cao, lượng sử dụng có hạn, chúng ta có thể sử dụng mục tiêu giá trị thấp để làm phân tán lực lượng địch và gây tiêu hao lớn cho chúng. Ví dụ, giá 1 chiếc máy bay tàng hình F-117A lên tới vài chục triệu USD, giá 1 quả tên lửa hành trình cũng tới hàng triệu USD,... Nếu ta sử dụng vũ khí trang bị cũ hoặc mục tiêu giả để dụ địch tiến công sẽ gây tiêu hao lớn cho chúng, làm giảm bớt lượng vũ khí công nghệ cao của địch, đồng thời làm giảm sút lòng tin khiến chúng không dám mạo hiểm tiếp tục sử dụng vũ khí công nghệ cao trên quy mô lớn. Trong cuộc chiến tranh cô-xô-vô, địa hình, địa vật, phức tạp của Nam Tư kết hợp với thời tiết mùa xuân ẩm ướt, âm u, rừng cây rậm rạp đã khiến cho hệ thống vũ khí công nghệ cao của NATO bộc lộ một số nhược điểm như khả năng nhận biết mục tiêu, khả năng định vị, dẫn đến đánh nhầm, đánh không chính xác, đánh vào mục tiêu giả ngày càng tăng, khiến chúng bị tiêu hao ngày càng lớn.

Tổ chức, bố trí lực lượng phân tán, có khả năng tác chiến độc lậpTổ chức, bố trí lực lượng phân tán là thu nhỏ quy mô các lực lượng lớn, bố trí theo nhu cầu, mỗi đơn vị có thể thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ phòng thủ, tiến công, cơ động chi viện,... Bố trí phân tán lực lượng không theo quy tắc, xây dựng khu vực tác chiến du kích xen kẽ nhỏ lẻ, đa năng, nhưng sẵn sàng tập trung khi cần thiết. Bố trí như vậy sẽ giảm thiểu tổn thất khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. Khả năng chiến đấu độc lập và tập trung cao sẽ giảm bớt sự chi viện của lực lượng dự bị, như vậy sẽ tránh được tổn thất cho lực lượng dự bị. Bố trí phân tán sẽ tăng thêm khó khăn cho đối phương trong việc trinh sát phát hiện mục tiêu, phán đoán tình hình và xác định phạm vi đánh, làm giảm hiệu quả tác chiến của địch.

Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng, đô thị với xây dựng hầm ngầm để tăng khả năng phòng thủ.

Trong quá trình xây dựng đất nước những năm gần đây, hầu hết các địa phương trong cả nước đã có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, đời sống xã hội có nhiều thay đổi, các thành phố ngày càng mở rộng, cơ sở hạ tầng phát triển, các khu trung tâm kinh tế - công nghiệp phát triển, nhiều đô thị mới ra đời với tốc độ nhanh, mật độ dân cư ngày càng cao. Cùng với sự phát triển chung đó chúng ta cần quan tâm đúng mức đến phát triển cơ sở hạ tầng như điện, đường, kho, trạm,... Đồng thời, chúng ta cũng không nên xây dựng các thành phố quá đông dân cư, các khu công nghiệp tập trung mà xây dựng nhiều thành phố vệ tinh và tập trung phát triển mạng giao thông. Xây dựng đường cao tốc phải kết hợp tạo ra những đoạn đường máy bay có thể cất hạ cánh. Xây dựng cầu phải kết hợp cả việc sử dụng các bến phà, bến vượt, trong tương lai chúng ta sẽ xây dựng đường xe điện ngầm ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,... Xây dựng các nhà cao tầng phải tính đến số lượng tầng cao để giảm bớt tổn thất trong chiến tranh; các công trình lớn của quốc gia như nhà Quốc hội, nhà Trung tâm Hội nghị quốc gia, văn phòng của các Bộ, ngành,... phải có tầng hầm, thời bình làm kho, nhà xe, thời chiến làm hầm ẩn nấp. Xây dựng các nhà máy thuỷ điện phải tính đến phòng chống máy bay phá đập gây lũ lụt.

  1. Biện pháp chủ động.

Gây nhiễu các trang bị trinh sát của địch, làm giảm hiệu quả trinh sát Gây nhiễu là một biện pháp cơ bản trong đối kháng trinh sát, nhằm làm giảm hoặc suy yếu hiệu quả các thiết bị trinh sát của địch, khiến chúng không thể phát huy tác dụng. Một số biện pháp gây nhiễu có thể vận dụng:

Tích cực phá hoại hệ thống trinh sát của địch. Có thể sử dụng đòn tiến công của tên lửa đất đối không, đòn phản kích của binh lực mặt đất hoặc tiến hành gây nhiễu điện tử, hạn chế và phá hoại trinh sát kĩ thuật của địch. Tổ chức bắn rơi máy bay trinh sát điện tử của địch sẽ hạn chế rất nhiều việc sử dụng vũ khí điều khiển chính xác của chúng.

Sử dụng tổng hợp nhiều thủ đoạn thực hiện gây nhiễu chế áp lại địch, nhưng phải chuẩn bị chu đáo, nhất là thời cơ và đối tượng gây nhiễu, bởi vì, khi gây nhiễu cũng chính là lúc ta lại bị bộc lộ, địch sẽ trinh sát định vị lại ta, ta cần bố trí các đài gây nhiễu nơi hiểm yếu và di chuyển liên tục. Lập các mạng, các trung tâm thông tin giả hoạt động đồng thời với thông tin thật để thu hút hoạt động trinh sát và chế áp điện tử của địch, che đậy tín hiệu công tác thực của ta.

Hạn chế năng lượng bức xạ từ về hướng ăng ten thu trinh sát của địch bằng cách sử dụng công suất phát hợp lí, chọn vị trí đặt ăng ten sao cho có địa hình che chắn về phía địch trinh sát, phân bố mật độ liên lạc hợp lí, không tạo ra dấu hiệu bất thường, thay đổi thường xuyên quy ước liên lạc, mã hoá các nội dung điện, chọn tần số gần tần số làm việc của địch; tăng công suất máy phát, sử dụng ăng ten có hệ số khuyếch đại cao, rút ngắn cự li thông tin...

Dùng hoả lực hoặc xung lực đánh vào những chỗ hiểm yếu, nhằm phá huỷ các đài phát, tiêu diệt nguồn gây nhiễu của địch.

- Nắm chắc thời cơ, chủ động đánh địch từ xa, phá thế tiến công của địch

Cần phải trinh sát nắm địch chặt chẽ, chính xác và có quyết tâm sử dụng lực lượng hợp lí, nhất là phát huy khả năng của lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng đặc công, pháo binh chuyên trách tiến công địch. Sử dụng tổng hợp, các loại vũ khí có trong biên chế của lực lượng phòng không ba thứ quân. Kết hợp sử dụng vũ khí thô sơ, vũ khí tương đối hiện đại để đánh địch, rèn luyện ý chí chiến đấu quyết đánh và biết thắng vũ khí công nghệ cao của địch. Huấn luyện nâng cao trình độ cho các lực lượng phòng không ba thứ quân. Làm cho mỗi người lính, mỗi người dân biết sử dụng thành thạo các vũ khí có trong tay để bắn máy bay và tên lửa của địch trong tầm bắn hiệu quả khi nó bay qua khu vực đóng quân của đơn vị mình, địa phương mình.

Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, dù kẻ địch tiến công bằng hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao từ hướng nào, khu vực nào, sử dụng vũ khí công nghệ cao đến mức nào chúng ta cũng đánh trả có hiệu quả làm vô hiệu hoá vũ khí công nghệ cao của địch, đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù.

- Lợi dụng đặc điểm đồng bộ của hệ thống vũ khí công nghệ cao, đánh vào mắt xích then chốt

Tập trung lực lượng đánh vào những hệ thống có tác dụng bảo đảm và điều hành, gây ra sự hỗn loạn và làm mất khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao hoặc sự phối hợp nhịp nhàng giữa hệ thống vũ khí công nghệ cao với các hệ thống vũ khí thông thường khác.

Mặt khác, vũ khí công nghệ cao có thể đồng thời sử dụng cả trên bộ, trên biển và trên không, do vậy phải tổ chức đánh địch từ xa. Sử dụng các thủ đoạn tập kích, đặc biệt có thể vận dụng đặc công, pháo binh chuyên trách, dân quân tự vệ tập kích, phá hoại vùng địch hậu, tập kích tung thâm... phá huỷ các hệ thống phóng, hệ thống bảo đảm hoặc các căn cứ trọng yếu của chúng, khiến chúng bị tê liệt khi tác chiến. Có thể lợi dụng thời tiết khắc nghiệt như mưa, mù, bão gió... để tập kích vào các hệ thống vũ khí công nghệ cao.

- Cơ động phòng tránh nhanh, đánh trả kịp thời chính xác Khi cơ động phòng tránh phải thực hiện tốt các yêu cầu bí mật, cơ động nhanh, đến đúng địa điểm, thời gian sẵn sàng chiến đấu cao.

Để thực hiện được mục đích đó, công tác tổ chức chuẩn bị phải chu đáo, có kế hoạch cơ động, di chuyển chặt chẽ. Khi cơ động phải tận dụng địa hình, rừng cây, khe suối..., hạn chế khả năng trinh sát, phát hiện bằng các phương tiện trinh sát hiện đại của địch. Xác định nhiều đường cơ động, có đường chính, đường dự bị, đường nghi binh và tổ chức ngụy trang.

Phòng tránh, đánh trả địch tiến công bằng vũ khí công nghệ cao là vận dụng tổng hợp các giải pháp, biện pháp, các hoạt động một cách có tổ chức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong chuẩn bị và thực hành phòng tránh, đánh trả bảo đảm an toàn cho nhân dân và các thành phần lực lượng, giữ vững sản xuất, đời sống, sinh hoạt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Phòng tránh, đánh trả tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ, tác động lẫn nhau một cách biện chứng, đan xen nhau. Phòng tránh tốt là điều kiện để đánh trả có hiệu quả. Đánh trả có hiệu quả tạo điều kiện để phòng tránh an toàn và chúng ta cần hiểu rằng trong phòng tránh có đánh trả, trong đánh trả có phòng tránh. Như vậy, phòng tránh tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch là một biện pháp có ý nghĩa chiến lược để bảo toàn lực lượng, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản, là một yếu tố quan trọng để giành thắng lợi. Thực tiễn trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mĩ trước đây, công tác phòng không nhân dân đã có vị trí vai trò to lớn trong việc bảo vệ nhân dân, bảo vệ các mục tiêu quan trọng của miền Bắc.

Những kinh nghiệm tổ chức phòng tránh trong chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch trước đây và các cuộc chiến tranh gần đây của Mĩ và đồng minh vào Irắc, Nam Tư...là những kinh nghiệm rất bổ ích, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng chúng ta sẽ tổ chức tốt công tác phòng tránh tiến công bằng vũ khí cao của địch trong tình hình mới.

Trong phòng tránh phải triệt để tận dụng ưu thế địa hình tự nhiên để cải tạo và xây dựng công trình phòng tránh theo một ý định chiến lược chung trên phạm vi toàn quốc, trên từng hướng chiến dịch, chiến lược, trên từng địa bàn cụ thể, từng khu vực phòng thủ địa phương. Bố trí lực lượng phương tiện phân tán, nhưng hoả lực phải tập trung, công trình phải luôn kết hợp chặt chẽ giữa ngụy trang che giấu với hoạt động nghi binh, xây dựng phải dựa vào khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và tăng cường cơ động trong chiến đấu.

Đối với đánh trả tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch, nhằm tiêu diệt, phá thế tiến công của địch, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ các mục tiêu quan trọng của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất,... Đánh trả có hiệu quả là vấn đề cốt lõi nhất của phòng tránh, đánh trả, là biện pháp tích cực nhất, chủ động nhất để bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ mục tiêu, bảo toàn lực lượng chiến đấu.Với điều kiện và khả năng của ta, việc tổ chức đánh trả phải có trọng điểm, đúng đối tượng, đúng thời cơ. Đánh trả địch bằng mọi lực lượng, mọi loại vũ khí, trang bị, thực hiện đánh rộng khắp, từ xa đến gần, ở các độ cao, các hướng khác nhau. Ta đánh địch bằng sức mạnh tổng hợp, ta đánh địch bằng thế, thời, lực, mưu,...

Về phương pháp chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với cơ động, ngụy trang, nghi binh, phòng tránh bảo tồn lực lượng. Về lực lượng, chúng ta có lực lượng phòng không ba thứ quân và không quân, lực lượng pháo binh, tên lửa, lực lượng đặc công,... và hoả lực súng bộ binh tham gia.

Với những thành phần như vậy, có thể đánh các mục tiêu trên không, các mục tiêu mặt đất, mặt nước nơi xuất phát các đòn tiến công hoả lực của địch, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Trong đó, tổ chức xây dựng thế trận phòng tránh đánh trả tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch đáp ứng yêu cầu hiểm, chắc, có chiều sâu, cơ động linh hoạt, rộng khắp, kết hợp với thế trận khu vực phòng thủ địa phương. Phải xác định các khu vực, mục tiêu bảo vệ trọng điểm, đối tượng đánh trả, khu vực đánh trả, hướng đánh trả chủ yếu cho các lực lượng tham gia đánh trả.

Trong thực hành đánh trả địch, phải vận dụng một cách linh hoạt các hình thức tác chiến, chiến thuật, phương pháp hoạt động chiến đấu khác nhau cho từng lực lượng, như lực lượng phòng không ba thứ quân có thể vừa chốt bảo vệ mục tiêu, vừa cơ động phục kích đón lõng, kết hợp vừa phòng tránh vừa đánh trả. Đối với lực lượng không quân, pháo binh, tên lửa, hải quân có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp tác chiến của quân, binh chủng có hiệu quả nhất, phù hợp với điều kiện tình hình địch, ta như đánh chặn, đánh đòn tập kích, đánh hiệp đồng,...

Ngoài những vấn đề trên, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống phòng thủ dân sự, đây là nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng của nền quốc phòng toàn dân, là hệ thống các biện pháp phòng thủ quốc gia. Từng địa phương và cả nước, được tiến hành trong thời bình và thời chiến, nhằm bảo vệ nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, duy trì sản xuất và đời sống nhân dân trong đó bảo vệ nhân dân là nội dung quan trọng nhất. Nếu việc tổ chức phòng thủ dân sự không tốt, không có giải pháp để phòng chống vũ khí công nghệ cao, không những chỉ tổn thất về người mà còn dẫn đến hoang mang, dao động, giảm sút ý chí quyết tâm kháng chiến của mỗi người dân, từng địa phương và cả nước.

Ngày nay, nếu cuộc chiến tranh xảy ra sẽ là cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, diễn ra trên không gian nhiều chiều, tiền tuyến và hậu phương không phân định rõ ràng như trước đây. Do vậy, ở các thành phố, thị xã, thị trấn nơi tập trung đông dân cư và các cơ sở kinh tế lớn chủ yếu là sơ tán, còn các trọng điểm khác có thể phân tán, sơ tán gần. Các cơ sở sản xuất lớn của Trung ương có thể phải sơ tán xa hơn, chủ yếu dựa vào các hang động ở rừng núi để sản xuất phục vụ chiến tranh.

Hệ thống công trình phòng thủ dân sự gồm hệ thống hầm hố ẩn nấp cho cá nhân, cho các hộ gia đình, các công trình bảo đảm sản xuất, bảo đảm sinh hoạt, bảo đảm lương thực, thực phẩm của tập thể, hộ gia đình triển khai ở các cơ quan, nhà ga, bến cảng, kho nhiên liệu, xăng dầu được tiến hành ngay từ thời bình thông qua kế hoạch kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế ở từng địa phương và trong phạm vi cả nước.

KẾT LUẬN

Phương thức phòng chống địch tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao là một vấn đề lớn của cả đất nước trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ ngày nay.

Để phòng chống địch tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh tương lai có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị trên tất cả các lĩnh vực từ nhận thức đến hành động. Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng phòng chống địch tiến công hoả lực có hiệu quả trong mọi tình huống.

Mọi công tác chuẩn bị của các cấp, các ngành và của người dân phải được chuẩn bị ngay từ thời bình, chống chủ quan, coi nhẹ, luôn luôn theo dõi chặt chẽ, đánh giá đúng, chính xác âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao và những phát triển mới về vũ khí trang bị, phương pháp tác chiến trong chiến tranh tương lai của địch. Công tác chuẩn bị phải chu đáo từ thế trận phòng tránh, đánh trả, đến công tác huấn luyện, diễn tập cách phòng chống tiến công hoả lực của địch bằng vũ khí công nghệ cao.

 

Bài 8: Ba môn quân sự phối hợp

MỞ ĐẦU

Huấn luyện ba môn quân sự phối hợp là một trong những hình thức để xác định chất lượng huấn luyện thể lực và tình hình hoạt động thể thao của mỗi nhà trường. Học sinh sinh viên phải thường xuyên luyện tập, đạt các chỉ tiêu đã qui định cho các lứa tuổi và từng đối tượng. Thi đấu 3 môn quân sự phối hợp có thể tiến hành thi cá nhân, đồng đội.

Phần I. ĐIỀU LỆ CHUNG

  1. ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐIỀU KIỆN THI ĐẤU
  2. Đặc điểm:

Thi đấu ba môn thể thao quân sự phối hợp (thể thao quốc phòng) được tiến hành theo các bài tập nằm trong chương trình giáo dục quốc phòng, mục đích của thi đấu ba môn thể thao quân sự phối hợp là giáo dục cho học sinh, sinh viên có ý chí quyết tâm giành thắng lợi, rèn luyện kỹ năng, kỹ sảo, khả năng thực hiện các bài tập đa dạng, sức chịu đựng cường độ thể lực và sự căng thẳng về tâm lý trong quá trình thi đấu thể thao.

Thi đấu ba môn quân sự phối hợp là một trong những hình thức để xác định chất lượng huấn luyện thể lực và tình hình hoạt động thể thao của nhà trường. Để thi đấu đạt kết quả tốt, học sinh, sinh viên phải luyện tập và hoàn thành những yêu cầu về chỉ tiêu rèn luyện quy định cho các lứa tuổi và đối tượng.

Thi đấu ba môn quân sự phối hợp có thể tiến hành thi cá nhân, đồng đội. Trong thi đấu cá nhân phải xác định kết quả thành tích, vị trí cho tất cả những người dự thi. Trong thi đấu đồng đội, lấy kết quả của các cá nhân tổng hợp thành kết quả đồng đội rồi dựa vào đó xếp hạng cho từng đội. Thi cá nhân, đồng đội là đồng thời xác định kết quả của cá nhân và của đồng đội rồi xếp hạng cho cá nhân và đồng đội.

  1. Điều kiện thi đấu:

Thi đấu ba môn quân sự phối hợp, đấu thủ tham gia cuộc thi phải bảo đảm đủ các điều kiện.

Hiểu, nắm vững quy tắc và đã được luyện tập thường xuyên.

Có chứng nhận đủ điều kiện sức khoẻ của bác sỹ.

TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CỦA NGƯỜI DỰ THI

  1. Trách nhiệm của người dự thi.

- Người dự thi phải hiểu điều lệ, quy tắc cuộc thi và nghiêm túc thực hiện điều lệ quy tắc thi đấu.

Có mặt đúng thời gian tại cuộc thi cùng trang bị, trang phục đã quy định, thẻ hoặc giấy chứng nhận thi đấu và tuân thủ đúng quy chế thi đấu.

  • Thực hiện đúng hướng dẫn của trọng tài.
  • Tuân thủ nghiêm quy tắc quản lý, sử dụng súng và đạn.
  1. Quyền hạn của người dự thi.

Được bắn thử để kiểm tra súng, luyện tập và thực hiện các bài tập ở những địa điểm đã quy định của Hội đồng trọng tài.

Chỉ khi thật cần thiết mới được phép báo cáo trực tiếp với trọng tài những vấn đề có liên quan đến việc tiến hành cuộc thi, trong các trường hợp khác nếu có yêu cầu gì đối với trọng tài thì dùng lời nói hoặc làm văn bản báo cáo với đoàn trường (đội trưởng) chuyển lên Hội đồng trọng tài.

TRÁCH NHIỆM, QUYỀN HẠN CỦA ĐOÀN TRƯỞNG (ĐỘI TRƯỞNG)

Mỗi đoàn (đội) dự thi nhất thiết phải có cán bộ có phẩm chất, tư cách vững vàng và hiểu biết sâu sắc về chuyên môn làm đoàn trưởng. Đoàn trưởng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về kỷ luật của các đấu thủ khi ở địa điểm thi đấu cũng như tại nơi ở và bảo đảm cho mỗi đấu thủ hoặc đội vào thi đấu kịp thời. Khi vắng đoàn trưởng thì đội trưởng thay thế. Khi đội trưởng vắng phải chỉ định một trong các đấu thủ thay mặt để chỉ huy đội.

Đoàn trưởng (đội trưởng) có nhiệm vụ nộp cho Hội đồng Trọng tài danh sách thi đấu thủ dự bị và những tài liệu cần thiết cho điều l, quy tắc cuộc thi quy định.

Trách nhiệm của đoàn trưởng (đội trưởng)

Đoàn trưởng (đội trưởng) phải:

- Hiểu và thực hiện điều lệ, quy tắc và quy chế của cuộc thi.

- Bảo đảm kịp thời đưa đoàn (đội) đến địa điểm thi đấu với với trang phục, súng đạn cần thiết đã quy định, chịu trách nhiệm trước nhà trường về việc bảo đảm an toàn mọi mặt của đoàn (đội) mình.

Thường xuyên có mặt ở địa điểm thi đấu và chỉ được tạm vắng khi tổng Tộng tài về những thay đổi của cuộc thi, như: thời gian, chương trình thi đấu …

Báo cáo với Hội đồng Trọng tài về những thay đổi trong đăng ký và những đấu thủ do tình trạng sức khoẻ không thể tiếp tục thi đấu được.

Tham dự cộc họp của Hội đồng Trọng tài với quyền hạn tư vấn và tham dự bốc thăm.

  1. Quyền hạn của đoàn trưởng (đội trưởng)

Chuyển đến Hội đồng Trọng tài những khiếu nại của đoàn (đội).

Đề nghị Hội đồng Trọng tài kiểm tra và giải thích kết quả thi đấu sau khi đã thông báo sơ bộ về thành tích.

Đoàn trưởng (đội trưởng) không được phép can thiệt vào công việc của trọng tài và cũng không được tự ý quyết định thay đổi đấu thủ hoặc rút đấu thủ khỏi cuộc thi nếu không được Hội đồng Trọng tài cho phép. Trong quá trình thi đấu cũng không được phép giúp đỡ vận động viên.

  1. a) Thủ tục khiếu nại.

Tất cả những khiếu nại đều phải đưa đến Hội đồng Trọng tài, có thể đưa trước khi bắt đầu cuộc thi, trong quá trình cuộc thi và sau khi kết thúc cuộc thi, nhưng không chậm quá một giờ sau khi kết thúc môn thi đó.

Đoàn trưởng (đội trưởng) có thể đưa khiếu nại bằng văn băn có chỉ dẫn các mục, các điểm của quy tắc hoặc điều lệ cuộc thi mà người khiếu nại bị cho là vi phạm.

Tổng trọng tài phải xem xét các khiếu nại trong thời gian ngắn nhất. Nếu khiếu nại đó cần phải kiểm tra thì quyết định cần được thực hiện trong vòng 24h từ lúc nhận được đơn khiếu nại và kết luận trước khi xác định thành tích cuối cùng của cuộc thi.

Quyết định của Tổng trọng tài về khiếu nại và quyết định cuối cùng và không xét lại nữa.

  1. b) Xác định thành tích và xếp hạng.

Thi vô địch cá nhân và đồng đội được xác định theo điều lệ cuộc thi.

Khi xếp hạng cá nhân, vận động viên nào có thành tích (tổng số điểm) cao hơn được xếp trên. Trường hợp thành tích bằng nhau của một số vận động viên thì vận động viên nào có kết quả cao hơn trong các môn thi sẽ được xếp trên.

Khi xếp hạng đồng đội, cộng tổng số điểm của các vận động viên trong từng đội và xếp hạng cao thấp cho các đội căn cứ vào tổng số điểm của từng đội. Trường hợp thành tích bằng nhau của một số đội thì đội nào có vận động viên xếp thứ hạng cao (nhất, nhì, ba, .v.v…) sẽ được xếp vị trí cao hơn.

Phần II. QUY TẮC THI ĐẤU

  1. QUY TẮC CHUNG

Điều 1: Mỗi vận động viên phải thi đấu ba nội dung trong hai ngày theo trình tự sau đây:

Ngày thứ nhất: Sáng thi bắn súng quân dụng, chiều ném lựu đạn.

Sáng ngày thứ hai: Chạy vũ trang 3000m (nam); 1500m (nữ).

Điều 2: Trang phục và trang bị thi đấu. Mặc quần áo lao động hoặc thể thao, đi giày hoặc chân đất, Súng quân dụng (tiểu liên AK, SKS).

Đeo số thi đấu ở ngực và đeo kết quả bốc thăm ở lưng, không được thay đổi số áo trong suốt cuộc thi.

  1. QUY TẮC THI ĐẤU CÁC MÔN
  2. Bắn súng quân dụng:

Điều 3: Điều kiện bắn.

Dùng súng trường SKS (hoặc tiểu liên AK) lực cò không nhẹ dưới 2kg.

Mục tiêu cố định, bia số 4 có vòng.

Cự li bắn: 100m.

Tư thế bắn: nằm bắn có bệ tì.

Số đạn bắn: 3 viên (súng trường tự động, tiêu liên bắn phát một)

Điều 4: Thứ tự bắn.

Theo trình tự bốc thăm, vạn động viên phải có mặt ở vị trí điểm danh trước giờ thi đấu của mình 30 phút để làm công tác chuẩn bị, điểm danh, kiểm tra súng, đạn và trang bị.

Điều 5: Quy tắc bắn.

Khi vào tuyến bắn, sau khi khám súng và có lệnh “Nằm chuẩn bị bắn” của trọng tài trưởng, vận động viên mới được làm công tác chuẩn bị. Khi chuẩn bị xong vận động viên phải báo cáo “số…. chuẩn bị xong” và chỉ được bắn sau khi có lệnh của trọng tài.

Vận động viên được phép dùng vải bạt, chiếu, nilon để nằm bắn.

Khi có lệnh bắn, mọi trường hợp cướp cò, nổ súng coi như đã bắn. Đạn lia thia không tính thành tích.

Đạn chạm vạch được tính điểm vòng trong, đạn không nổ được bù thêm.

Trong khi thi đấu, súng bị hỏng hóc, phải báo cáo với trọng tài nếu được phép mới được ra ngoài sửa hoặc đổi súng.

Điều 6: Vi phạm quy tắc bắn.

Nổ súng trước khi có lệnh bắn của trọng tài sẽ bị tước quyền thi đấu môn bắn súng.

Nổ súng sau khi có lệnh thôi bắn (dừng bắn của trọng tài sẽ bị cảnh cáo, viên đạn đó không được tính thành tích và bị trừ thêm 2 điểm trên bia.

Trong thi đấu nếu bắn nhầm bia mà trọng tài xác định được thì viên đạn đó vẫn được tính điểm cho người bắn nhầm nhưng bị trừ 2 điểm trên bia. Nếu trên bia có hai điểm chạm, không phân biệt rõ điểm chạm của từng người bắn thì cả hai đều có quyền nhận viên đạn có điểm chạm cao nhất hoặc cả hai đều bắn lại. Thánh tích bắn lại được xử trí như sau:

+ Dù đạt được bao nhiêu nhưng so với nhau, nếu ai có điểm bắn cao hơn sẽ lấy điểm cao của bia đang xét. Ngoài ra phải trừ đi hai điểm trên bia đối với người bắn nhầm.

+ Mọi hành động gian lận như đổi súng (dùng súng chưa được kiểm tra), đổi người dự thi không có ttrong danh sách báo cáo, hoặc vi phạm các điểm a; d của điều 5, hoặc vi phạm nguyên tắc an toàn thì dù là vô tình hay cố ý, tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ mà trọng tài nhắc nhở, cảnh cáo hoặc tước quyền thi đấu môn bắn súng.

Nếu bắn súng thể thao: cự li 50m, bia số 7B, nằm bắn có bệ tỳ, bắn 3 viên tính điểm (như bắn súng quân dụng).

  1. Ném lựu đạn xa, trúng hướng

Điều 7: Điều kiện ném.

Lựu đạn gang, hình trụ, cán gỗ dài 12cm, trọng lượng 600 gam (nam) và 500-520 gam (nữ).

Bãi ném: Ném trong đường hành lang rộng 10m, đường chạy rộng 4m, dài từ 15-20m.

Tư thế ném: Cầm súng (không dương lê), có thể ném hoặc chạy lấy đà.

Số quả ném: Ném tử 1 quả, ném tính điểm 3 quả.

Thời gian ném: 5 phút (kể cả ném thử).

Điều 8: Thứ tự ném

Theo kết quả bốc thăm, phân chia bãi mén và đợt ném, vận động viên khởi động ngoài, đến lượt ném mới vào vị trí chuẩn bị.

Điều 9: Quy tắc ném.

Vận động viên chỉ được ném sau khi có lệnh của trọng tài, có thể ném thử hoặc không. Muốn ném thử hoặc ném tính điểm, vận động viên phải báo cáo “Số … xin ném thử” hoặc “Số… chú ý”, “1 quả ném thử” hoặc “3 quản ném tính điểm” bắt đầu, vận động viên mới được ném. Mỗi quả ném đều có hiệu lệnh bằng cờ của trọng tài. Khi ném, một tay cầm súng (không dương lê) có thể đứng ném hoặc chạy lấy đà. Khi đang chạy đà, nếu cảm thấy chưa tốt, vận động viên có quyền chạy lại với điều kiện không được để một bộ phận nào của thân thể chạm hoặc vượt ra ngoài vạch giới hạn, kể cả lựu đạn tuột tay rơi ra ngoài vạch giới hạn.

Lựu đạn phải rơi trong phạm vi hành lang rộng 10m, rơi trúng vạch vẫn được tính thành tích.

Ném xong cả 3 quả tính điểm rồi mới đo thành tích của cả 3 lần ném và lấy thành tích của lần ném xa nhất. Mỗi lần lựu đạn rơi trong hành lang, trọng tài đều cắm cờ đánh dấu điểm rơi, thành tích lấy chẵn tới cm.

  • Thời gian ném: 5 phút, kể cả từ khi trọng tài cho lệnh ném thử.

Điều 10: Vi phạm quy tắc ném.

Khi được lệnh ném của trọng tài, nếu do sơ ý lựu đạn rơi bên ngoài vạch giới hạn thì coi như đã ném quả đó.

Lưu đạn rơi ngoài phạm vi hành lang không được tính thành tích.

Tự động ném trước khi có lệnh của trọng tài sẽ bị tước quyền thi đấu môn ném lựu đạn.

Mọi hành động trong gian lận, như đổi người, đổi trang bị hoặc vi phạm các điểm a,b,c,d của Điều 9 thì tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà trọng tài nhắc nhở, cảnh cáo hoặc tước quyền thi đấu.

  1. Chạy vũ trang.

Điều 11: Điều kiện chạy

  • Đường chạy tự nhiên. Cự ly chạy: 3000m (nam); 1500m (nữ).

Điều 12: Thứ tự chạy.

Vận động viên phải có mặt ở vị trí tập kết trước giờ thi đấu của mình 20 phút để điểm danh, kiểm tra trang bị và khởi động.

Trọng tài điểm danh và sắp xếp vị trí cho các vận động viên theo thứ tự bốc thăm. Điều 13: Quy tắc chạy

Xuất phát: Mỗi đợt xuất phát không quá 20 người. Khi có lệnh “vào chỗ” của trọng tài, các vận động viên về vị trí của mình và chuẩn bị chờ lệnh.Tay và chân không được chạm vào vạch xuất phát.

Khi có lệnh chạy (bằng súng phát lệnh hoặc phất cờ…) vận động viên mới bắt đầu chạy.

Khi chạy trên đường, vận động viên không được gây trở ngại cho các đấu thủ khác. Khi muốn vượt phải vượt về phía bên phải. Nếu đối thủ chạy trước không chạy vào sát mép trong đường chạy vận động viên chạy sau được phép vượt lên bên trái đối thủ đó. Dù vượt bên nào cũng không được gây trở ngại, như xô đẩy, chen lấn đối thủ chạy trước. Vận động viên chạy trướccũng không được cản trở, chèn ép đối thủ chạy sạu khi đối thủ này muốn vượt lên trước. Khi về đích, vận động viên dùng một bộ phận thân người chạm vào mặt phẳng cắt ngang vạch đích hoặc dây đích (trừ đầu, cổ, tay và chân) và khi toàn bộ cơ thể đã vượ qua mặt phẳng đó mới coi là chạy hết cự ly.

Điều 14: Vi phạm quy tắc chạy.

Vi phạm các điểm sau đây sẽ bị xoá bỏ thành tích.

Chạy không hết đường quy định.

Nhờ người mang vũ khí, trang bị hoặc dìu đỡ trước khi về đích.

Về đích thiếu súng.

Chen lấn thô bạo, cố tình cản trở làm ảnh hưởng tới thành tích hoặc gây thương tích cho đối thủ.

Về đích thiếu trang bị sẽ bị phạt bằng cách cộng thêm vào thành tích chạy thời giam như sau:

Thiếu số áo, cộng 10 giây.

Thiếu thắt lưng, cộng 10 giây.

Vi phạm điểm a của Điều 12, điểm a, b, c, d của Điều 13 hoặc có hành động gian lẫn thì tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà trọng tài nhắc nhở, cảnh cáo hoặc tước quyền thi đấu môn chạy vũ trang.

III. CÁCH TÍNH THÀNH TÍCH

  • Cách tính điểm và xếp hạng. Tính điểm và xếp hạng cá nhân.

Điều 15: Tính điểm bắn súng quân dụng.

Căn cứ vào kết quả điểm chạm, cộng điểm của 3 viên bắn tính điểm. Đối chiếu với bảng điểm để quy ra điểm (xem bảng tính điểm), vận động viên có số điểm cao hơn xếp trên. Nếu bằng nhau, sẽ so sánh ai có vòng 10, 9, 8… nhiều hơn xếp trên. Nếu vẫn bằng nhau thì xếp bằng nhau.

Điều 16: Tính điểm ném lựu đạn.

Căn cứ vào thành tích ném xa nhất, đối chiếu với bảng điểm để quy ra điểm (xem bảng tính điểm) vận động viên nào có số điểm cao hơn, xếp trên. Nếu bằng nhau, xét trực tiếp các quả ném đó, nếu vẫn bằng nhau thì xét kết quả thứ hai, thứ 3.

Điều 17: Tính điểm chạy vũ trang.

Căn cứ vào thời gian chạt (Sau khi đã xử lý các trường hợp phạm quy) để quy ra điểm (xem bảng tính điểm), vận động viên nào có số điểm cao hơn thì xếp trên. Nếu bằng nhau, sẽ xét vận động viên nào có thời gian chạy ít hơn xếp trên, nếu bằng nhau, xếp bằng nhau.

Điều 18: Tính điểm cá nhân toàn năng.

Căn cứ điểm của ba môn, vận động viên nào có tổng số điểm nhiều hơn xếp trên. Nếu điểm bằng nhau, sẽ lần lượt so sánh thứ tự (các môn chạy vũ trang, bắn súng, ném lựu đạn) vận động viên nào có thứ hạng cao xếp trên. Nếu bằng nhau, xếp bằng nhau.

Tính điểm và xếp hạng đồng đội.

Điều 19: Tính điểm đồng đội từng môn. Cộng điểm từng môn của các vận động viên trong đội. Đội nào có tổng số điểm nhiều hơn xếp trên. Nếu bằng nhau, xét đội nào có số vận động viên xếp thứ hạng toàn năng cao hơn xếp trên.

Điều 20: Tính điểm đồng đội toàn năng.

Cộng điểm toàn năng của các vận động viên trong đội, đội nào có tổng số điểm nhiều hơn xếp trên. Nếu bằng nhau, xét đội nào có số vận động viên xếp theo thứ hạng toàn năng cao hơn xếp trên.

Tính điểm và xếp hạng toàn đoàn.

Điều 21: Xếp hạng toàn đoàn.

Cộng điểm của đồng đội nam và đồng đội nữ, đoàn nào có tổng số điểm nhiều hơn thì xếp trên. Nếu bằng nhau, đoàn nào có đội nữ xếp hạng cao hơn xếp trên.

Bảng tính điểm từng môn, một số mẫu biểu và văn bản.

Tính điểm từng môn:

+ Bắn súng quân dụng (áp dụng cho cả nam và nữ)

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

 

 

trên

xếp

trên

xếp

trên

xếp

trên

xếp

trên

xếp

 

bia

hạng

bia

hạng

bia

hạng

bia

hạng

bia

hạng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

30

1000

24

500

18

220

12

110

6

50

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

29

900

23

450

17

190

11

100

5

40

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

28

800

22

400

16

170

10

90

4

30

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

27

710

21

350

15

150

9

80

3

20

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

26

630

20

300

14

130

8

70

2

10

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

25

560

19

250

13

120

7

60

1

0

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+ Ném lựu đạn:

Nam: 60 m được tính 1000 điểm, xa hơn 60m, cứ 4cm được 1 điểm Kém hơn 60 m, cứ 5m trừ đi 1 điểm.

Nữ: 40m được 1000 điểm, xa hơn 40m, cứ 4cm được 1 điểm.

Kém hơn 40m, cứ 5m trừ đi 1 điểm.

(theo nguyên tắc tính điểm tròn: Từ 3 cm trở lênđược tính tròng 1 điểm, dưới 3cm thì không điểm).

Chạy vũ trang: (Nam 3000m; nữ 1500 m).

Nam: 10 phút được tính 1000 điểm.Nhanh hơn 10 phút thì 1 giây được 5 điểm.

Chậm hơn 10 phút thì 1 giây trừ đi 3 điểm.

Nữ: 5 phút 30 giây được tính 1000 điểm. Nhanh hơn 5 phút 30 giây thì 1 giây được 5 điểm.Chậm hơn 5 phút 30 giây thì 1 giây trừ đi 3 điểm.

KẾT LUẬN

Tổ chức giảng dạy nôi dung ba môn quân sự phối hợp là trang bị cho sinh viên những nội dung cơ bản về quy tắc, điều lệ thi đấu ba môn quân sự phối hợp nhằm tăng cường sức khoẻ, góp phần hoàn thiện các tố chất thể lực như: Nhanh, mạnh, bền, khéo, làm cơ sở thuận lợi cho sinh viên tham gia vào lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

 

 

Khoa Giáo dục Quốc phòng, Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Tầng 7, phòng 710, Nhà C12 tầng, Số 18 Phố Viên, P. Đức Thắng, Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội
Tel: (+84-24) 38387615  
Email: giaoducquocphong@humg.edu.vn