TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

SỰ KỲ DIỆU CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN

Ngày 19/12/1946, trước dã tâm tái xâm lược nước ta của thực dân Pháp, "Nín nhịn đã nung nấu trong lòng dân tộc ta biết bao uất hận, nổ thành một sức mạnh xung thiên"(1). Đó là ngày mở đầu "cuộc tổng tiến công"(2), "cuộc tổng giao chiến đầu tiên"(3) của cuộc chiến tranh cách mạng đầu tiên do Đảng ta lãnh đạo.

Ngày đó đã đi vào tâm khảm mỗi người dân Việt Nam là ngày mở đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp oanh liệt, đầy tự hào với bao điều không thể nào quên..

Phát động cuộc chiến đúng thời cơ

Lần đầu tiên lãnh đạo kháng chiến, nhưng từ sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấu dã tâm của kẻ thù. Ngay trong Hội nghị toàn quốc của Đảng tháng 8.1945 ở Tân Trào trước tổng khởi nghĩa, Đảng đã chỉ rõ "Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị của chúng ở Đông Dương"(4)

Để đối phó với kẻ thù mới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương vừa kiên quyết kháng chiến ở miền Nam, vừa ra sức xây dựng chế độ mới, Nhà nước mới về mọi mặt, thể hiện thiện chí hoà bình, kiên trì đối thoại nhằm thủ tiêu hoặc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đồng thời đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với tình huống xấu nhất: Chiến tranh lan rộng ra cả nước..

Bất chấp thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân ta, quân Pháp liên tục khiêu khích, lấn chiếm và tìm cách mở rộng chiến tranh, chỉ cần "một phần quân tăng viện từ mẫu quốc được chờ đợi đã đến nơi, nghĩa là khoảng 15.1.1947..."(5)

Điều đó hoàn toàn trùng hợp với một bản báo cáo của Morett - Giám đốc Sở An ninh Pháp tại Bắc Kỳ - phân tích tình hình ngày 15/12/1946, như sau: "Tôi không nghĩ rằng, Bộ chỉ huy các lực lượng Việt Nam có ý định mở cuộc xung đột, bởi họ đã có rất nhiều cơ hội, nhưng họ không lợi dụng những cơ hội đó. Theo ý mọi người, chúng ta mà chủ động gây chiến trước thì chỉ có thể là thắng lợi"(6)

Nhưng Pháp chưa đủ lực lượng cần thiết, họ phải chờ đợi, ít nhất vào giữa tháng 1 năm sau. Và khoảng thời gian đó (cuối tháng 12/1946 đến giữa tháng 1/1947) là thời cơ thuận lợi nhất để Đảng ta phát động kháng chiến toàn quốc. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ vào ngày 19/12/1946, có thể nói đó là thời điểm tối ưu trong một thời cơ thuận lợi

Một số người trong chính giới Pháp(7) đổ lỗi cho phía Việt Nam đã gây ra chiến tranh, họ xem đây là "một sự nhầm lẫn chính trị to lớn, nó đã đưa Đông Dương vào một cuộc chiến tranh dài vô tận..."(8)

Những tác giả trên cố tình không nhớ đến việc giới hiếu chiến Pháp đã chuẩn bị trở lại xâm lược Đông Dương khi Chiến tranh thế giới thứ hai chưa kết thúc. Việc họ theo gót quân Anh vào miền Nam là bất hợp pháp, việc ra được miền Bắc là nhờ sự mua bán với Tưởng Giới Thạch và bao lần không thực hiện các điều cam kết, liên tục khiêu khích, lấn chiếm, tiếp tục đưa quân sang để mở rộng chiến tranh..

Sau này, nhiều tác giả nước ngoài đã chỉ rõ nguồn gốc của cuộc chiến tranh. King C.Chen - một người Mỹ gốc Hoa - khẳng định: Về quân sự, tuy Việt Minh tiến công trước, nhưng điều đó không che lấp nguyên nhân thật sự của chiến tranh: "Việc trở lại chế độ thực dân Pháp mới là nguyên nhân căn bản của cuộc chiến"(9). Ký giả Mỹ Z.P.Harrison: "Có thể nói, ngay từ đầu Việt Minh đã nhượng bộ người Pháp, không còn cách nào tránh nổi, họ đã phải tiến hành chiến tranh"(10)

Vậy là, lãnh đạo cuộc kháng chiến đầu tiên sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, chủ động và kiên quyết phát động cuộc chiến đúng thời cơ, khi khả năng hoà hoãn không còn và đất nước đã được chuẩn bị về mọi mặt

Sự kỳ diệu của chiến tranh nhân dân

Căn cứ vào tương quan lực lượng, vào thực trạng địch-ta, tối 19 tháng 12 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy chính thức phát lệnh cho các đơn vị, địa phương, chiến trường nổ súng đồng loạt

20 giờ 3 phút ngày 19/12, quân và dân ta ở Hà Nội nổ súng đánh địch. Ngay trong đêm đến rạng sáng hôm sau, các thành phố, thị xã: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hòn Gai, Vinh, Nam Định, Huế cũng nổ súng đánh địch. Với nhiều lý do, trước hết là bởi phương tiện thông tin lạc hậu và kinh nghiệm triển khai phối hợp, chỉ huy chiến đấu còn hạn chế, chỉ Hà Nội thực hiện mệnh lệnh đúng thời gian, những nơi khác chậm từ 2 đến 7 giờ

Quân và dân ta trên chiến trường Nam Bộ đẩy mạnh các hoạt động kháng chiến phối hợp với miền Bắc, "Nhiệm vụ của Nam Bộ là không thể cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung, Bắc"(11)

Chủ trương đánh địch cùng lúc và đã tổ chức đánh địch gần như cùng một thời điểm, với tinh thần chủ động, đúng thời cơ, đã thể hiện rực rỡ nghệ thuật chỉ đạo mở đầu chiến tranh của Đảng ta

Với một nhân dân đã làm chủ đất nước, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chỉ huy, cuộc tổng tiến công của quân và dân ta đã giam chân hàng vạn quân địch suốt hơn 3 tháng trời, tạo điều kiện cho cả nước tiếp tục chuyển vào thời chiến. Nhớ lại, cuối thế kỷ XIX, khi đánh Hà Nội, quân Pháp chỉ có vài đại đội bộ binh, do vài viên sĩ quan cấp uý chỉ huy mà đã chiếm thành, chiếm cả thành phố trong vài ngày, mới thấy rõ sự kỳ diệu của chiến tranh nhân dân có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng

Chúng ta vui mừng bởi lịch sử hai nước Việt-Pháp đã sang một chương mới. Đó là sự hợp tác và hữu nghị vì lợi ích của cả hai nước trong một thế giới hiện đại. Ôn lại quá khứ cũng là để cho quá khứ nhắc nhở hiện tại và tương lai, để những gì thuộc lợi ích chân chính của nhân dân hai nước và cả loài người không ngừng phát triển.

Chú thích:
(1). Trường Chinh, Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, H, 1987, tr.22.
(2). Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb QĐND, H, 1976, tr.105.
(3). Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Nxb QĐND-Nxb Thanh niên, H, 1995, tr.30.
(4). Văn kiện Đảng 1930-1945, Nxb Sự thật, H, 1977, tr.413.
(5). Dẫn theo Phi-líp Đơ-vi-le: Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1993, tr.323.
(6). Dẫn theo Phi-líp Đơ-vi-le: Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1993, tr.402-403.
(7). Xem J.Xanh-tơ-ni: Câu chuyện về một nền hoà bình bị bỏ lỡ, Paris, 1967, lưu Thư viện Trung ương Quân đội (bản dịch), tr.21 và 254 và Xa-lăng: Một đế chế cáo chung (hồi ký), Paris, 1971, lưu Viện LSQS Việt Nam (bản dịch), tr.18 và 19.
(8). R.Xa-lăng, Sđd, tr.18-19.
(9). King C.Chen, Việt Nam và Trung Quốc (1938-1954), Sài Gòn cơ sở xuất bản Sử Địa, 1973, lưu Thư viện Viện LSQS, tr.180.
(10). Z.P.He-ri-xơn, Cuộc chiến tranh triền miên, Niu-oóc, 1982, lưu Trung tâm Thông tin Khoa học và Kỹ thuật quân sự (bản dịch).
(11). Văn kiện quân sự của Đảng, tập 2, Nxb QĐND, H, 1976, tr.69.

B.N - (theo Lao động)

Việt Báo (Theo_VnMedia )

http://vietbao.vn/Xa-hoi/Su-ky-dieu-cua-chien-tranh-nhan-dan/65077151/157/

 SÁNG TỎ TƯ DUY MỚI VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Vĩnh Thắng

 QĐND - Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã phân tích, dự báo bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, phát triển những quan điểm cơ bản về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và tiếp tục phát triển tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân (QPTD, ANND), xây dựng LLVT nhân dân, Quân đội nhân dân… theo quan điểm Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Bối cảnh mới của tình hình quốc tế, khu vực, trong nước không chỉ tạo ra những thời cơ, thuận lợi mới cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, mà còn đang và sẽ đặt ra những nguy cơ, thách thức mới, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy về xây dựng và củng cố nền QPTD, ANND, xây dựng LLVT nhân dân, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, bảo vệ Tổ quốc XHCN phù hợp với điều kiện lịch sử mới.

Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cùng với tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, tư duy mới thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong bảo vệ Tổ quốc. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh việc “giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta” và “giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời… sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu”.

Trong bối cảnh tình hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang diễn ra gay gắt, phức tạp, việc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo đối với nước ta đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Làm thế nào để giữ vững chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, không để xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh… là yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm xuyên suốt trong xử lý các mối quan hệ quốc tế và khu vực hiện nay là phải luôn tỉnh táo, bình tĩnh, khôn khéo, không bị kích động, xúi giục gây xung đột vũ trang, chiến tranh; giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.         

Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc không chỉ thể hiện ở việc giữ cho “trong ấm”, thông qua việc chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; mà còn phải giữ cho “ngoài êm”. Theo tinh thần đó, Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế”. 

Cùng với việc tiếp tục khẳng định yêu cầu tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, Đảng ta xác định phải “xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Đây là một trong những yêu cầu bức thiết, là nội dung cơ bản của việc xây dựng thế trận QPTD, ANND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới. Theo đó, việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và với chế độ XHCN luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong xây dựng, củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân” và “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân”.

Thể hiện tư duy mới về xây dựng nền QPTD, ANND trong giai đoạn mới, Văn kiện Đại hội Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh; làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: Chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, vùng trời, diễn biến hòa bình, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia…”.

Trong điều kiện mới, việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN có những nội dung mới, sự phát triển mới, rộng lớn hơn, toàn diện hơn. Do vậy, việc bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng - an ninh đòi hỏi phải trang bị một hệ thống kiến thức toàn diện hơn, trở thành kiến thức thường trực trong mỗi tổ chức, mỗi cá nhân hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cần trang bị cho cán bộ, đảng viên và người dân cả kiến thức về quốc phòng và an ninh; về sự chống phá của các thế lực thù địch cả bằng phương thức vũ trang và phương thức phi vũ trang, nhất là phòng, chống âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong; cả về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống...

Thực tế những năm qua, nhất là khi xảy ra một số vụ việc phức tạp về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cho thấy, khi các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thì phương thức bảo vệ hiệu quả nhất là phải tự bảo vệ.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục khẳng định phương hướng xây dựng LLVT nhân dân trong giai đoạn mới, nhấn mạnh yêu cầu “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”.

Xây dựng Quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao là yêu cầu mới, đòi hỏi phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa số lượng với chất lượng, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội phù hợp với tình hình mới. Chú trọng xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các LLVT gắn với quan tâm chăm lo bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân… thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, nhân dân đối với LLVT nhân dân trong giai đoạn mới. Cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất  kỹ thuật, bảo đảm cho các LLVT từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động.

Cùng với nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh, cần tiếp tục hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới; bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp giữa quân đội-công an và các tổ chức chính trị - xã hội. 

Trong bối cảnh lịch sử mới, với những thời cơ, thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục vận dụng những thành quả tư duy lý luận qua 25 năm đổi mới, đồng thời nhận thức, quán triệt sâu sắc các nội dung được bổ sung, phát triển mới trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; từng bước cụ thể hóa phù hợp với tình hình thực tiễn, có sự vận động, biến đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và củng cố nền QPTD, ANND, xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

 Nguồn : Báo quân đội nhân dân  - Thứ Sáu, 22/07/2011

 TƯ DUY MỚI CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI TÁC, ĐỐI TƯỢNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

 Đại tá NGUYỄN ĐỒNG THỤY,

Viện Chiến lược Quốc phòng (Tạp chí Quốc phòng toàn dân)

 Xác định đúng đối tác, đối tượng là vấn đề quan trọng, căn cứ chủ yếu để đề ra chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một quan điểm chỉ đạo của Đảng trong “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, kết hợp với phân tích, dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tới, Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định rõ mục tiêu, phương châm, quan điểm chỉ đạo và nội dung, giải pháp để thực hiện; trong đó, việc xác định đối tác, đối tượng được đặc biệt coi trọng.

Nếu như trước đây, trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) vấn đề đối tác, đối tượng được Đảng ta xác định như một nguyên tắc và nằm trong mối quan hệ giữa thuận lợi và hạn chế, thách thức, thì tại Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) việc xác định đối tác, đối tượng được Đảng ta khái quát thành một trong những quan điểm cơ bản xuyên suốt quá trình thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Theo đó, tại quan điểm thứ sáu của Nghị quyết, Đảng ta đã xác định “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Như vậy, với Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), tuy nội hàm của đối tác, đối tượng không thay đổi, nhưng việc đưa nó trở thành một quan điểm chỉ đạo đã thể hiện sự đổi mới tư duy quan trọng của Đảng, phù hợp với điều kiện, bối cảnh và xu thế thời đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điều này cũng phù hợp với một trong những mục tiêu xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là, lấy giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là mục tiêu cao nhất của cách mạng. Mặt khác, khi đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa đối tác và đối tượng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) mới chỉ nêu ra tính hai mặt của “một số đối tác” tồn tại, đan xen trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã khẳng định tính hai mặt tồn tại, đan xen một cách phổ biến trong “mỗi đối tác” và “mỗi đối tượng”, đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn biện chứng khoa học để trong từng thời điểm cụ thể nhận biết rõ đâu là đối tác để tranh thủ hợp tác và đâu là đối tượng để đấu tranh. Đây là sự phát triển mới, nhìn nhận vấn đề linh hoạt hơn, tạo tiền đề, nền tảng để các cấp, các ngành, các lực lượng, các địa phương và toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực. Với quan điểm chỉ đạo chiến lược đó, chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự hợp tác hữu nghị với các nước. Nhờ vậy, tranh thủ khai thác, phát huy được các mặt tích cực của các đối tác để phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế được những mặt tiêu cực của đối tượng, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với hơn 20 quốc gia trên thế giới; trong đó có các nước lớn, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta kiên trì giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, các tranh chấp, nhất là các tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), không để xảy ra xung đột, đối đầu, nhằm kiến tạo và củng cố môi trường hòa bình để phát triển đất nước; đồng thời, kiên quyết đấu tranh để giữ vững chủ quyền, lãnh thổ. Tuy nhiên, hiện nay nhận thức về đối tác, đối tượng trong hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh còn bộc lộ một số hạn chế. Trong lúc tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang là vấn đề nổi cộm, thì một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có xu hướng chỉ quan tâm đến đối tượng có ý đồ và hành động xâm chiếm biển, đảo, mà xem nhẹ, chưa thấy hết sự nguy hại của đối tượng “diễn biến hòa bình” (DBHB) và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoặc ngược lại. Cùng với đó, có bộ phận chỉ chú trọng đến đối tượng gây ra các thách thức an ninh truyền thống, coi nhẹ đối tượng gây ra các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, thậm chí cho rằng chỉ có chủ nghĩa đế quốc mới thực hiện “DBHB”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một bộ phận khác lại chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải lựa chọn, xây dựng đối tác, chuyển hóa đối tượng thành đối tác trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ nhận thức hạn chế, chưa đầy đủ, có thể dẫn đến hành động cực đoan, chủ quan, sơ hở, mất cảnh giác, phạm sai lầm, làm mất cơ hội hợp tác; dễ bị lợi dụng kích động, khoét sâu, phân hóa, chia rẽ, gây mất ổn định chính trị, làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, thậm chí tạo thời cơ cho các thế lực thù địch dễ bề can thiệp từ bên ngoài. Vì vậy, quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm về đối tác, đối tượng của Đảng vào thực tiễn hiện nay là vấn đề rất quan trọng, đòi hỏi phải triển khai nhiều giải pháp đồng bộ.

Trước hết, việc nhận thức và vận dụng quan điểm về đối tác, đối tượng phải được quán triệt và thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc ở tất cả các cấp, các ngành, các lực lượng, các địa phương và toàn dân, bảo đảm không làm cản trở tới cơ hội hội nhập, hợp tác, nhưng cũng không mơ hồ, mất cảnh giác trong quan hệ với các đối tác. Tuy nhiên, việc xử lý các mối quan hệ đối tác, đối tượng đòi hỏi các cấp, các ngành xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích của đất nước. Để nhận diện đúng đối tác, đối tượng và sự chuyển hóa giữa chúng, cần coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược; kịp thời phát hiện cơ hội để khai thác; đồng thời, nhận rõ thách thức để hóa giải, đề phòng, không để rơi vào thế bị động, bất ngờ, đối đầu, bị cô lập.

Hai là, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần nhận thức rõ và có đối sách để giải quyết các mối quan hệ giữa nguy cơ “DBHB” trong nước với các hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ từ bên ngoài. Theo đó, “DBHB” gây mất ổn định chính trị trong nước là cơ hội để các thế lực có tham vọng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biển đảo. Ngược lại, khi có xung đột vũ trang và hành động lấn chiếm biển, đảo là cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng kích động gây bạo loạn lật đổ, can thiệp xóa bỏ chế độ chính trị và thành quả cách mạng của nhân dân ta. Các nguy cơ này sẽ nghiêm trọng hơn nếu trong xử lý vấn đề đối tác, đối tượng phạm sai lầm, dẫn đến sự chuyển hóa ngược từ đối tác thành đối tượng, hoặc để các thế lực thù địch có tham vọng riêng thỏa hiệp xâm hại chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia và chế độ XHCN.

Ba là, đối tác, đối tượng là những vấn đề không dễ nhận biết. Nó có thể tồn tại trong cùng một chủ thể, hoặc đan xen ở các chủ thể khác nhau, khó có thể “gọi mặt”, “chỉ tên”. Song, đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự,... cần xác định công khai hợp lý đối tượng theo phân cấp, ở thời điểm, tình huống thích hợp, không để lẫn lộn giữa chiến lược và sách lược, dẫn đến bị động, lúng túng trong xử lý.

Trên cơ sở nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) chỉ đạo về đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế, hiện nay quan hệ giữa nước ta với các nước, các tổ chức và cá nhân trên thế giới, có thể phân chia thành các nhóm đối tác, như: đối tác chiến lược tin cậyđối tác chiến lược toàn diện, đối tác toàn diện và đối tác chiến lược. Sự phân chia đó, là định hướng quan trọng để các cấp, các ngành, các lực lượng vận dụng đối sách thích hợp, dựa trên tư duy thực tế, linh hoạt mở rộng quan hệ đối tác, thu hẹp đối tượng; trong đó, cần đặc biệt quan tâm việc lựa chọn, xây dựng cho được “bạn chiến lược tin cậy” làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về đối tượng của cách mạng Việt Nam có thể phân chia theo các nhóm sau:

  1. 1Đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ XHCN, sử dụng đòn tiến công chính là “DBHB”, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để thay đổi chế độ ta. Khi có điều kiện, thời cơ, nhất là khi ta phạm sai lầm trong xử lý các tình huống chiến lược, chúng sẽ kích động gây bạo loạn lật đổ, xung đột vũ trang hoặc chiến tranh, với các dạng thức mới: chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin, kinh tế, tài chính, chiến tranh mạng,... Với đối tượng này, chúng ta cần tiếp tục phát triển, mở rộng quan hệ đối tác toàn diện một cách chủ động, thận trọng, giữ đúng nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không làm ảnh hưởng đến các nước khác; tận dụng mọi cơ hội mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực có thể hợp tác, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh.
  2. 2Đối tượng có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ,ngấm ngầm thực hiện âm mưu xâm lấn biên giới, biển, đảo thuộc chủ quyền lãnh thổ của ta. Họ công khai thực hiện “chiến lược biên giới mềm” nhằm kiềm chế, chi phối chính sách đối nội, đối ngoại, buộc ta phải đi vào quỹ đạo, nhượng bộ về chủ quyền, lợi ích quốc gia. Khi có thời cơ, có thể gây xung đột vũ trang, chiến tranh chiếm giữ lãnh thổ, chiếm đoạt tài nguyên của nước ta. Với đối tượng này, cần tranh thủ những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, tăng cường sự tin cậy về chính trị, dựa trên đối sách linh hoạt, thực tế, kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia và chế độ XHCN.
  3. 3Đối tượng do bị tác động của“DBHB”dẫn đến “tự chuyển hóa” có thể gây ra “biến động chính trị”, hoặc tự giác trở thành đồng minh của đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ ta. Đối tượng này gồm: các phần tử thoái hoá biến chất, cơ hội chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham ô, lãng phí, quan liêu. Đây là lực lượng“giấu mặt”, có thể nằm trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội hòng chống phá từ bên trong. Với đối tượng này “cần phải kịp thời ngăn chặn, xử lý những kẻ chủ mưu, cầm đầu, ngoan cố” kết hợp với giáo dục, cảm hóa. Chủ động đấu tranh với âm mưu, hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch. Không để hình thành tổ chức chính trị đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.
  4. 4. Đối tượng gây thảm họa thiên tai, môi trườngcó thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế, chính trị - xã hội, tạo cơ hội để các đối tượng khác lợi dụng khoét sâu, thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Chúng có thể ở trong và ngoài nước thực hiện âm mưu hủy hoại nguồn nước, phá hoại môi trường, bất chấp lợi ích của quốc gia, dân tộc,... nhằm đạt được mục tiêu chính trị nhất định. Đây là loại đối tượng mới, cần đặc biệt quan tâm. Với đối tượng này, nếu thuộc nội bộ cần kiên trì “lấy giáo dục, thuyết phục là chính, đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật”. Nếu thuộc đối tượng bên ngoài, cần kiên trì đàm phán hòa bình, dựa vào luật pháp, công ước quốc tế, tranh thủ các tổ chức khu vực, tổ chức quốc tế, không để mâu thuẫn tăng cao đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội của ta.

Bên cạnh đó, cần thống nhất nhận thức về sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Trong lịch sử, một số chính trị gia đã sớm rút ra kết luận: “không có đồng minh vĩnh viễn và kẻ thù truyền kiếp, chỉ có lợi ích dân tộc là lâu dài”. Luận điểm này được các quốc gia ngày càng nhận thức rõ ràng hơn. Vì thế, đến nay các nước rất coi trọng mở rộng quan hệ đối tác ở các cấp độ khác nhau tùy theo lợi ích dân tộc. Đối với nước ta, quá trình hội nhập quốc tế, cần đa dạng hóa về nội dung, hình thức quan hệ, hợp tác, góp phần đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều sâu, ổn định, vững chắc, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN, các nước bạn bè truyền thống,... Trên cơ sở đó, không ngừng củng cố, tăng cường sự tin cậy về chính trị, đồng thời chủ động đấu tranh ngăn ngừa, không để các thế lực thù địch, lôi kéo chuyển hóa gây bất lợi cho ta.

 Nguồn: Tạp chí quốc phòng toàn dân

http://tapchiqptd.vn/zh/nghien-cuu-thuc-hien-nghi-quyet/tu-duy-moi-cua-dang-ve-doi-tac-doi-tuong-trong-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc/5748.html

 VẤN ĐỀ ĐỐI TÁC – ĐỐI TƯỢNG

TRONG CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC

ThS. Mai Xuân Ba

Học viện An ninh nhân dân

 TCCSĐT - Sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh, đất nước ta vẫn phải đối diện với rất nhiều nguy cơ, thách thức trên mọi lĩnh vực; đồng thời, phải đứng trước sự lựa chọn, phân định bạn - thù, đối tác - đối tượng, để định hình chiến lược, sách lược; đề ra và triển khai có hiệu quả đường lối đối nội, đối ngoại; bảo vệ lợi ích của dân tộc và vai trò lãnh đạo của Đảng, sự vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ ngày 02-7 đến ngày 12-7-2003), trên cơ sở phân tích tình hình chính trị thế giới, khu vực và trong nước; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra và âm mưu, khả năng hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ta đã đề ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” (gọi tắt là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003). Trong đó, Đảng ta đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo trong việc xác định đối tác - đối tượng, cụ thể là: Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối ta, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn. Không nên xác định cả một quốc gia là đối tượng đấu tranh mà chỉ nên nói các thế lực thù địch, hoặc một số người trong giới cầm quyền ở một số nước nào đó có hành động cực đoan, hiếu chiến, chống đối ta, các cơ quan tình báo nước ngoài có hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của ta. Không có đối tác vĩnh viễn, song phải xác định được những đối tác chiến lược, lâu dài, nhất quán trên cơ sở chủ trương thêm bạn, bớt thù, khai thác triệt để mặt đối tác nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài và chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những phương châm chỉ đạo trên đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ, khách quan, toàn diện trong tư duy của Đảng ta về vấn đề đối tác - đối tượng: từ chỗ chỉ dựa trên ý thức hệ để xác định bạn - thù, sau đó mới tới lợi ích của quốc gia, dân tộc, đã chuyển sang quan niệm mềm dẻo, biện chứng hơn khi nhìn nhận đúng đắn về sự đan cài lợi ích trong quan hệ với các quốc gia. Đồng thời, cũng trên cơ sở phương châm chỉ đạo trên, Trung ương Đảng ta đã đề ra nguyên tắc trong việc xác định đối tác, đối tượng phù hợp với bối cảnh của đất nước, đó là: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể”(1).

Sau hơn 10 năm quán triệt thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003 nói chung và các phương châm, nguyên tắc trong xác định đối tượng, đối tác, chúng ta đã thu được rất nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt chúng ta đã: “...bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc,... Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước”(2). Nước ta đã hội nhập ngày càng sâu với quốc tế, thiết lập quan hệ bình thường với hầu hết các quốc gia; tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao vào các tổ chức ở cấp khu vực và thế giới. Đặc biệt, nước ta đã tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống với các đối tác láng giềng; tạo quan hệ ổn định, lâu dài và không ngừng đưa các mối quan hệ với các nước lớn đi vào chiều sâu (3); tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác của quốc tế vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động can thiệp, lật đổ, chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các thế lực thù địch.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận đúng về những hạn chế, thiếu sót. Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 25-10-2013, nêu rõ: “... một số yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chậm được củng cố, tăng cường, có mặt còn giảm sút và phát sinh những vấn đề phức tạp mới. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chưa đầy đủ, sâu sắc; chủ quan, mất cảnh giác; quan liêu, không gắn bó với nhân dân, không nắm chắc tình hình, có nhiều sơ hở... Các nguy cơ mà các Đại hội Đảng đã chỉ ra, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI tiếp tục cảnh báo chưa được khắc phục, có mặt còn nghiêm trọng hơn”(4).

Trên thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ, mất cảnh giác, nhìn nhận phiến diện về vấn đề đối tượng, đối tác; chưa có quan điểm khách quan, toàn diện trong đánh giá các nguy cơ, thách thức và cơ hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó, chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời, chưa gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu hội nhập quốc tế với yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm sự độc lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam. Cho nên, trong một số trường hợp chúng ta vẫn còn rơi vào thế bị động, bất ngờ.

Chính từ việc nhận thức đúng về mối nguy hiểm, đe doạ từ những hạn chế nói trên có thể tác động làm giảm sút sức mạnh tổng hợp của đất nước, cũng như khả năng bảo vệ Tổ quốc trước các khó khăn, thách thức đặt ra trong thời gian tới, ngày 25-10-2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã tổ chức Hội nghị lần thứ tám và nhất trí thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Với hệ thống 7 quan điểm đề ra trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết lần này tiếp tục nhấn mạnh và làm rõ hơn quan điểm về vấn đề đối tượng - đối tác.

Việc xác định đối tượng, đối tác là tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, sách lược, chiến lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối tượng - đối tác là một trong những nội dung căn bản nhất trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề đối tượng, đối tác vừa qua đã được Trung ương Đảng ta khẳng định rõ: “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(5).

Quan điểm trên của Trung ương Đảng vẫn thể hiện được tính mềm dẻo, biện chứng toàn diện trong cách nhìn nhận về đối tượng và đối tác. So với nội hàm quan điểm cùng về vấn đề này trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, thì quan điểm lần này vừa có tính kế thừa, nhưng vừa có sự bổ sung những nội dung phù hợp, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc. Cụ thể:

Thứ nhất, quan điểm về đối tượng đấu tranh

Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định: “... bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta không vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia, dân tộc.

Bởi vì, “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”(6), cho nên tiếp tục đề cao mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu. Hơn nữa, điều này cũng phù hợp với phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội VII (năm 1991) đã đề ra đó là “Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc”(7). Thực tế chỉ ra rằng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chính là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta - đó cũng chính là lợi ích quốc gia, dân tộc ta đang hướng tới.

Do đó, bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng chính là các thế lực có âm mưu, hành động chống lại nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chống lại các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam; chống lại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn và tất cả những thế lực đó đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.

Thứ hai, quan điểm về đối tác

Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003, xác định “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta”. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết số 28-NQ/TW “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, ngày 25-10-2013 đã cắt bỏ đi hai từ “chủ trương” của quan điểm trước đây và khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”.

Điều này vừa bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, nó cũng phù hợp với đường lối đối ngoại nhất quán của nước ta đã được Đảng ta xác định trong Đại hội XI: “là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(8); “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”(9).

Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, trách nhiệm quốc tế của Việt Nam cũng ngày càng lớn và được các đối tác tin cậy. Do đó, việc cắt bỏ đi hai từ “chủ trương”trong quan điểm cũ là một bước khẳng định rõ ràng rằng chúng ta sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với những đối tác nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với chúng ta; chứ không phải chỉ dừng lại ở mức độ “chủ trương”. Mặc dù vậy, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện thì khi nhận thức về vấn đề đối tác cần phải đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề đối tượng ngày nay.

Thứ ba, về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác

Trước đây, Trung ương Đảng chỉ nêu “... trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Nhưng hiện nay, Trung ương Đảng đã khẳng định: “... trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”.

Có thể thấy, Trung ương Đảng đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tác, chứ không chỉ dừng lại ở một số đối tác như trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng.

Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng, nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Thậm chí có đối tác bản thân đã, đang là đối tượng, buộc chúng ta phải vừa hợp tác, vừa phải đấu tranh. Bên cạnh đó, trong các loại đối tượng sẽ có những đối tượng mâu thuẫn, khác biệt ở mức độ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định với chúng ta về ý thức hệ, hoặc về lợi ích chủ quyền, lãnh thổ hoặc về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội,... Tuy nhiên, xét trong tổng thể thì vẫn còn có mặt có thể hợp tác được, mà không phải là đối tượng hoàn toàn hay đối tượng vĩnh viễn.

Thứ tư, chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta

Quan điểm về vấn đề đối tượng, đối tác mà Trung ương Đảng đề ra trong Nghị quyết 28-NQ/TW còn thể hiện tính cách mạng sâu sắc, rằng với những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa ta với mỗi đối tác đó, chúng ta không phải vì vậy mà chấp nhận nó, mà “cần phải đấu tranh”. Bằng sự mưu trí, sáng tạo để “đấu tranh”nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp chúng ta phát triển nhanh. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn, lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải là nhằm mục tiêu triệt tiêu đối tác.

Tóm lại, trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác đâu là điểm có thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực đoan, máy móc hoặc rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là hợp tác, còn đối tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm dẻo trong hoạch định chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng, ở từng mặt, từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa bình, hợp tác và phát triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn; tránh bị cô lập, lệ thuộc.

Bên cạnh đó, để góp phần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vấn đề đối tượng, đối tác, đòi hỏi các cơ quan, ban, ngành chức năng cần phải nghiên cứu, xây dựng nội dung phù hợp, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho từng đối tượng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đối với các cán bộ chủ chốt và các lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì cần phải mở chuyên đề riêng, có sự phân tích sâu sắc, toàn diện hơn để giúp cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, hiểu rõ, nâng cao sức cảnh giác, đề phòng, nhận diện được đối tượng, đối tác của ta, tạo nên sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Mỗi cơ quan, ban, ngành, tổ chức, doanh nghiệp,... cần phải xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng thành các chương trình hành động, kiểm tra, giám sát phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, để đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc./.

------------------------------------------------------------

Chú thích:

(1) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003, tr. 44

(2) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013

(3) Trong quan hệ với các nước lớn, hiện nay Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước - Nguồn: Tạp chí Cộng sản, số 862 (tháng 8-2014), tr. 32

(4) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013

(5) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013

(6) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013, Điều 11

(7) Tìm hiểu môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2007, tr. 54

(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 83

(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 84

Nguồn: Tạp chí cộng sản

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2015/31758/Van-de-doi-tac-doi-tuong-trong-chien-luoc-bao-ve.aspx

 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

 Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc, khoa học về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn, đã và đang soi đường cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau. Một trong những vấn đề quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng nền quốc phòng gồm các nội dung cơ bản: Dựng nước và giữ nước, quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại, độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.

 

Ðơn vị nữ dân quân trực chiến xã Ðông Lâm huyện Tiền Hải - đơn vị bắn rơi máy bay không người lái của Mỹ năm 1967. Ảnh: Tư liệu

Truyền thống: “Dựng nước đi đôi với giữ nước” là quy luật tồn tại và phát triển, là kế sách giữ nước bền lâu, xuyên suốt trong mọi thời đại. Bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm đường cứu nước, nhưng truyền thống yêu nước vẫn thấm sâu trong Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh và Ðảng ta đã kế thừa truyền thống dân tộc, giải quyết tài tình mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn của từng thời kỳ cách mạng. Ðó là chủ trương “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” trong kháng chiến chống thực dân Pháp; đường lối thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ; là phương châm chỉ đạo: “Giữ nước từ lúc nước chưa nguy”.

            Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới hiện nay, Ðảng đề ra quan điểm: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; trong xây dựng có bảo vệ, xây dựng vững chắc là phương thức bảo vệ tích cực, chủ động. Quốc phòng là công cuộc giữ nước của quốc gia nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh. Các quốc gia trên thế giới có phương thức giữ nước khác nhau như: Chủ yếu dựa vào sức mạnh của quân đội với vũ khí trang bị hiện đại, hoặc dựa vào địa hình hiểm trở, dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài...

            Với dân tộc Việt cách thức tối ưu là dựa vào dân, bởi “Nâng thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Truyền thống đó trở thành tư tưởng lớn, nhất quán trong sự nghiệp vì dân, vì nước của Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Còn dân là còn nước, có dân là có tất cả”; và “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Nhân dân là lực lượng, là động lực của cách mạng, đồng thời mục tiêu của cách mạng là hướng tới sự ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng “dân là gốc” lên một tầm cao mới: Xây dựng nền quốc phòng của dân, do dân, vì dân; xác định rõ bản chất, mục đích, phương thức xây dựng và hoạt động của nền quốc phòng. Mục đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ và bảo vệ nhân dân, làm cho “… dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

            Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải xây dựng thế trận lòng dân vững mạnh, đó là phải dựa vào dân “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Khi chưa xảy ra chiến tranh thì toàn dân hăng hái lao động sản xuất, mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi xảy ra chiến tranh thì thực hiện chiến tranh nhân dân: “Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, tạo ra những “Bức thành đồng” bảo vệ Tổ quốc. Ðó là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, là bí quyết chiến thắng của nhân dân ta.

            Người luôn nhất quán quan điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”, vì vậy phải động viên, khích lệ toàn quân, toàn dân theo tinh thần “Ðem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Chỉ có tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, chúng ta mới tranh thủ và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế. Cũng chỉ có độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, chúng ta mới xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân, không bị lệ thuộc vào nước ngoài.

Trong tiến trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trong đó việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân là cốt yếu, là lực lượng chủ đạo quyết định thắng lợi của cách mạng. Trong xây dựng lực lượng vũ trang phải tập trung xây dựng ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt. Kết hợp xây dựng lực lượng quân sự đi đôi với xây dựng lực lượng chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, binh vận và địch vận. Ðây là những hình thức tổ chức thích hợp nhất để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao giờ cũng đi đôi với xây dựng nền quốc phòng toàn diện, bao gồm sức mạnh về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao, trong đó sức mạnh về quân sự đóng vai trò quyết định.

Trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chú trọng hướng tới xây dựng một nền quốc phòng hiện đại. Người xác định, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, các thế lực thù địch đã chế tạo và sản xuất nhiều loại vũ khí hiện đại, tối tân phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam; bởi vậy, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, mục tiêu của công nghiệp hóa là nhằm “phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng”. Xây dựng nền quốc phòng hiện đại là xây dựng quân đội ta thành một đội quân chính quy, tinh nhuệ, có đủ các binh chủng hợp thành, có “quả đấm chủ lực mạnh”… Vì nền quốc phòng vững mạnh không thể thiếu một quân đội thường trực mạnh làm nòng cốt. Cùng với xây dựng nền quốc phòng hiện đại, Hồ Chí Minh chủ trương phải gắn quốc phòng với an ninh. Hai lực lượng này tuy có chức năng khác nhau nhưng cùng có chung một đối tượng là kẻ thù của dân tộc và giai cấp. Vì vậy, bất cứ nhiệm vụ nào của quốc phòng và an ninh đều có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai lĩnh vực nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng của Ðảng, của dân tộc.

Trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Hồ Chí Minh chú trọng đến nghệ thuật quân sự. Người đã học tập, vận dụng nghệ thuật quân sự của cha ông như “lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh”, “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy chất lượng cao thắng số lượng đông” và phát triển lên một tầm cao mới. Nghệ thuật ấy là sự tạo lực, lập thế, tranh thời, biết đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế, biết tập trung ưu thế và thời cơ quyết định để luôn luôn đánh địch trên thế mạnh. Với tinh thần trên, Người dạy: “Dĩ nhu xử cương”, “lấy mềm thắng cứng”. Trong nắm bắt thế trận chiến lược toàn cục, Người coi “nhân hòa, địa lợi, thiên thời” là những nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh, trong đó nhân hòa là quan trọng bậc nhất.

Ngày nay, đất nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, những thuận lợi và nguy cơ, thách thức đan xen. 

 Thấm nhuần và vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ vững thế trận lòng dân, Ðảng và Nhà nước ta đang từng bước đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại nhằm ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và CNXH.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Bình

Nguồn: http://tinhdoanthaibinh.vn/News/Lists/f/View_Detail.aspx?ItemID=24

 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VÀO XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG HIỆN NAY

 Trung tá TRẦN ĐÌNH THẮNG

Học viện Kỹ thuật Quân sự

 Đại hội IX của Đảng đã khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân (QPTD) là một nội dung cơ bản trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam; có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với tư tưởng về quân sự, về xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân, Quân đội nhân dân, về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong xây dựng nền QPTD ở nước ta hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng vào điều kiện cụ thể của nước ta; kế thừa và phát triển truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”, kinh nghiệm đánh giặc và nghệ thuật quân sự độc đáo của dân tộc Việt Nam; đồng thời, tiếp thu những kinh nghiệm hay của các dân tộc trên thế giới. Nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của Người, có thể nhận thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD bao gồm những nội dung sau.

Trước hết, đó là quan niệm về tính tất yếu của nhiệm vụ củng cố quốc phòng (CCQP), bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cùng với việc khẳng định nền độc lập của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Ngay sau khi thành lập Chính quyền cách mạng, trước tình thế “thù trong, giặc ngoài”, “ngàn cân treo sợi tóc”, Người đã cùng với Trung ương Đảng, Chính phủ bắt tay ngay vào việc lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc chấn hưng đất nước, tổ chức kháng chiến, bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững nền độc lập của dân tộc mới giành được. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi, trong diễn văn mừng Chính phủ về Thủ đô,  Người chỉ rõ: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”. Người luôn căn dặn các LLVT và nhân dân không được lơ là, mất cảnh giác; trong khi tập trung cho sản xuất, phải luôn sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của kẻ thù, trấn áp các phần tử phá hoại, giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, Người luôn nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ miền Bắc phải làm tốt vai trò là hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam; phải nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH; đồng thời, đề cao cảnh giác, tích cực CCQP, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Hai là, quan niệm về tính chất toàn dân, toàn diện của sự nghiệp CCQP, BVTQ. Theo Hồ Chí Minh, CCQP, BVTQ là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; được xây dựng trước hết từ sức mạnh bên trong của đất nước, từ nhân dân, từ khối đại đoàn kết toàn dân, nòng cốt là LLVT nhân dân. Người chỉ rõ, đó là sự nghiệp của “toàn thể dân tộc Việt Nam”. Sức mạnh của nền quốc phòng đất nước là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc; của sự kết hợp mọi yếu tố vật chất và tinh thần; của tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, quân sự và ngoại giao,... mà cội nguồn là truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần đại đoàn kết của dân tộc ta, nhân dân ta. Người khẳng định: “lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”1. Người luôn nhắc nhở các cấp, các ngành, các địa phương, đoàn thể phải hết sức coi trọng công tác giáo dục, giác ngộ nhân dân về lòng yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí quyết tâm đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.

Ba là, tư tưởng về xây dựng LLVT nhân dân làm nòng cốt của sự nghiệp CCQP, BVTQ. Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng LLVT nhân dân (bao gồm cả quân đội và công an; cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích) làm nòng cốt đánh giặc giữ nước. Trong xây dựng Quân đội nhân dân, Người luôn quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội; trong đó, chú trọng xây dựng bản chất cách mạng, tính giai cấp, tính nhân dân, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, phương pháp, tác phong công tác, đạo đức cách mạng, kỷ luật quân sự... Đối với Công an nhân dân, Người đặc biệt nhấn mạnh tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”... Người rất coi trọng việc tuyên truyền, huấn luyện, phổ biến kinh nghiệm chiến đấu, xây dựng dân quân, du kích, tự vệ thành “bức tường sắt” trong thế trận “thiên la địa võng” đánh giặc cứu nước. Người nhận định, các thế lực thù địch luôn câu kết chặt chẽ với nhau để chống phá cách mạng; do đó, phải chú trọng xây dựng công an và quân đội như “hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính”2; nhiệm vụ quốc phòng và an ninh tuy có tính độc lập, nhưng luôn quan hệ mật thiết, thâm nhập lẫn nhau trong mục tiêu chung là CCQP và BVTQ.

Bốn là, tư tưởng về kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “...kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”3. Điều này đã trở thành phương châm xuyên suốt, góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng nước ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Theo Người, mỗi người dân phải là “một người lao động hăng hái”, đồng thời “là một chiến sĩ dũng cảm”; bộ đội phải tăng gia sản xuất, “thực túc, binh cường”, “chia phiên nhau, lớp đánh giặc, lớp làm ruộng, làm vườn, để tự cấp tự túc, không phiền đến dân”4 …

Cùng với toàn bộ hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, tư tưởng của Người về QPTD đã được Đảng, Nhà nước, quân đội ta quán triệt và vận dụng sáng tạo trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VII của Đảng (6-1991) chủ trương: “Củng cố nền QPTD và thế trận chiến tranh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thù là nhiệm vụ quan trọng của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị”5. Tinh thần ấy tiếp tục được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội VIII, IX của Đảng. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) đã ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trong đó, nhấn mạnh: “Củng cố và hoàn thiện nền QPTD, an ninh nhân dân (ANND) và thế trận QPTD gắn với thế trận ANND trên từng địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên địa bàn chiến lược; xây dựng các khu phòng thủ vững chắc”6. Đại hội X của Đảng tiếp tục chủ trương: “Xây dựng nền QPTD và ANND vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”7; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu: “Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội”8.

Nhằm tiếp tục quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD vào xây dựng nền QPTD trong thời kỳ mới, theo chúng tôi, cần nhận thức và giải quyết tốt một số vấn đề sau.

Một là, các cấp, các ngành cần nhận thức đầy đủ hơn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH, tăng cường hội nhập kinh tế thế giới; trên cơ sở đó, có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp chặt chẽ việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Vấn đề cần quan tâm hiện nay là, trong khi tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), phải hết sức chăm lo củng cố QP-AN, xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD và xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh. Theo đó, cần chú trọng xây dựng, hoàn thiện, thực hiện tốt quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển KT-XH gắn với củng cố QP-AN trên cả nước, từng vùng lãnh thổ và từng địa bàn. Các công trình kinh tế phải có phương án bảo vệ vững chắc trong tổ chức phòng thủ chung của đất nước; sự kết hợp này phải được quán triệt trong quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, nhất là đối với các địa bàn chiến lược về QP-AN, các vùng kinh tế trọng điểm. Thời gian tới, cần tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác QP-AN; coi trọng sự tham mưu, chỉ đạo về QP-AN của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đối với các ngành, các địa phương; bảo đảm để mỗi bước phát triển về kinh tế, đồng thời là một bước tăng cường, củng cố về QP-AN; chú trọng tính lưỡng dụng trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các công trình công nghiệp và các ngành trọng điểm phục vụ mục đích dân sinh, bảo đảm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chiến tranh khi cần thiết. Đối với các dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài, cần thực hiện tốt các quy trình thẩm định, phê duyệt, không để xảy ra mất an toàn về QP-AN của đất nước.

Hai là, Đảng, Nhà nước cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đồng bộ hệ thống thể chế về QP-AN; xây dựng, hoàn thiện chiến lược QP-AN, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới; chú trọng việc tổ chức xây dựng lực lượng, trang bị, nghệ thuật chỉ đạo tác chiến chống chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao và chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, nhất là công tác chỉ đạo triển khai thực hiện ở các vùng trọng điểm, chiến lược về QP-AN của đất nước.

Ba là, chú trọng  nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp, cần tập trung nâng cao trách nhiệm chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác QP-AN địa phương đối với đơn vị mình,... Đối với nhân dân, chú trọng nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm công dân trong việc thực hiện các nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong thanh niên, học sinh, sinh viên và nhân dân các vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số; phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản,... tạo sự đồng thuận xã hội trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung và nhiệm vụ QP-AN nói riêng.

Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng, thế trận QPTD với lực lượng và thế trận ANND ở cả tầm vĩ mô và vi mô, dựa trên nền tảng vững chắc của “thế trận lòng dân” và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo bước chuyển biến cơ bản, toàn diện, có chiều sâu trong xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), tạo nền tảng vững chắc cho thế trận QPTD và thế trận ANND. Cần hết sức coi trọng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, bảo đảm để các lực lượng này thực sự là nòng cốt tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đối với quân đội, cùng với yêu cầu nâng cao chất lượng chính trị, cần tập trung bồi dưỡng, nâng cao trình độ tác chiến, phối hợp, hiệp đồng, khả năng cơ động phòng tránh, đánh trả,... nhất là trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao; chú trọng chăm lo đời sống, sức khỏe của bộ đội; tăng cường công tác giáo dục, quản lý kỷ luật, nhất là kỷ luật quan hệ quân-dân; có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm tốt về vũ khí, trang bị kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cần quán triệt và triển khai thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa hai lực lượng, bảo đảm cho thế trận QPTD và thế trận ANND đều được phát huy một cách đầy đủ nhất. Thực hiện tốt Pháp lệnh Dân quân tự vệ và Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, tập trung xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng Dự bị động viên có chất lượng cao, làm nòng cốt, chỗ dựa tin cậy cho cấp ủy, chính quyền địa phương ở cơ sở.

 Nguồn : Tạp chí quốc phòng toàn dân

http://tapchiqptd.vn/zh/an-pham-tap-chi-in/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quoc-phong-toan-dan-vao-xay-dung-nen-quoc-phong-toan-dan-hien-nay/3085.html

 PHÁT TRIỂN TƯ DUY MỚI VỀ QUỐC PHÒNG

Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là trong thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đại hội VII của Đảng thông qua, tư duy lý luận về quốc phòng, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) có những phát triển mới.

Một trong những sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển về tư duy, nhận thức về quốc phòng của Việt Nam là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới và sau đó tiếp tục được khẳng định, làm rõ, phát triển trong Nghị quyết Đại hội Đảng X, các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương. Chúng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn về đặc điểm, tính chất, mục tiêu và nhiệm vụ quốc phòng và sự nghiệp BVTQ Việt Nam XHCN; phát triển quan niệm về xây dựng nền QPTD… Trong những phát triển ấy nổi lên một số vấn đề chiến lược.

Trước hết, đó là sự phát triển từ tư duy lô gích hình thức lên tư duy lô gích biện chứng trong xác định đối tượng và đối tác. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khóa IX) của Đảng đã chỉ rõ: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN đều là đối tượng đấu tranh”. Trên cơ sở “Dĩ bất biến” đó, căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, cụ thể mà “ứng vạn biến” cho phù hợp, chủ động xử lý tốt các mối quan hệ giữa đối tượng và đối tác, giữa hợp tác và đấu tranh. Vấn đề này phải được hiểu rất động, trong mỗi đối tượng cụ thể có nội dung cần hợp tác, trong mỗi đối tác cụ thể có mặt phải đấu tranh.

Về mục tiêu chiến lược, nếu như trước đây, trong tư duy, nhận thức ta thường nhấn mạnh mục tiêu của quốc phòng là: Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước… thì nay chúng ta đã nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất của Tổ quốc, lợi ích quốc gia dân tộc với bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ an ninh chính trị, TTATXH và nền văn hóa, bảo vệ môi trường hòa bình, sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Nội hàm mục tiêu của quốc phòng, của sự nghiệp BVTQ hiện nay của chúng ta là rất rộng, rất toàn diện, nhưng trên hết là giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; cơ bản nhất là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.

Về phương thức chiến lược BVTQ, trước đây khi nói đến lĩnh vực quốc phòng chúng ta thường hiểu hạn hẹp đó là hoạt động quân sự thuần túy, gắn với chức năng “chiến đấu” của quân đội. Cho rằng quốc phòng là nhiệm vụ của quân đội nên khi đề cập đến quốc phòng, nhiệm vụ BVTQ, trong tư duy chiến lược chúng ta thường nặng tư tưởng sử dụng quân đội bằng các giải pháp quân sự để đối đầu với kẻ thù xâm lược từ bên ngoài... Cách nhìn nhận ấy không sai nhưng còn hạn hẹp, thiếu tính bao quát. Trong điều kiện lịch sử mới Đảng ta xác định, BVTQ bằng sức mạnh tổng hợp của Nhà nước XHCN và của toàn dân, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý điều hành tập trung thống nhất của Nhà nước. Chúng ta kiên định nguyên tắc chiến lược, đồng thời linh hoạt về sách lược trong xử trí các tình huống liên quan đến quốc phòng BVTQ, không để bị động bất ngờ, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống.

Chiến lược quốc phòng phải được kết hợp chặt chẽ với Chiến lược an ninh và Chiến lược ngoại giao trong Chiến lược BVTQ, dựa chắc trên nền tảng Chiến lược phát triển KT-XH, lấy giữ vững hòa bình, ổn định, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt và phát triển bền vững là phương thức tối ưu để BVTQ. Công cuộc xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN phải gắn chặt với cuộc đấu tranh giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi và thế đối ngoại vững mạnh để tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng của đất nước. Chiến lược quốc phòng phải quán triệt tư tưởng tiến công, chủ động bảo vệ từ xa, lấy giữ vững ổn định bên trong là chủ yếu, đồng thời tích cực ngăn chặn mọi nguy cơ từ bên ngoài. Đồng thời kết hợp chặt chẽ hai phương thức đấu tranh vũ trang và "phi vũ trang", lấy đấu tranh "phi vũ trang" là chủ yếu trong xử trí các tình huống về quốc phòng. Đấu tranh vũ trang chỉ là giải pháp cuối cùng khi các giải pháp “phi vũ trang” không thể thực hiện được.

Sự phát triển trong tư duy về quốc phòng của Việt Nam cũng được thể hiện rõ trong quan điểm, đường lối về xây dựng nền QPTD. Phương thức giữ nước duy nhất đúng của dân tộc Việt Nam là xây dựng nền QPTD gắn với nền ANND, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận ANND. Sức mạnh nền QPTD trong Chiến lược BVTQ chúng ta xác định: Đó là sức mạnh tổng hợp, toàn diện của toàn dân tộc, của cả quốc gia; đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Nhưng một điều được Đảng ta khẳng định: Đó là nền quốc phòng mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự cường và ngày càng hiện đại; nền QPTD do Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; Nhà nước XHCN quản lý, điều hành tập trung thống nhất.

Trong xây dựng nền QPTD, Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận QPTD với lực lượng và thế trận ANND, đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc để tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng của đất nước. Đồng thời tập trung xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh, nhất là QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu toàn diện và trình độ SSCĐ cao, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng BVTQ. Đi kèm với đó phải xây dựng và phát triển nền CNQP độc lập tự chủ với các bước đi hợp lý và vững chắc, từng bước đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ quốc phòng. Chủ động phòng, chống làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đặc biệt, phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với QĐND và CAND.

Trong phát triển lý luận về nghệ thuật quân sự Việt Nam, chúng ta đã quan tâm cả về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, tổ chức lãnh đạo và điều hành chiến tranh nhân dân BVTQ, chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Chúng ta đã nghiên cứu dự báo về chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch đối với Việt Nam - cuộc chiến tranh đó là sự kế tục chiến lược “diễn biến hòa bình” bằng bạo lực vũ trang, do các thế lực thù địch tiến hành sử dụng vũ khí công nghệ cao với các phương thức, thủ đoạn tác chiến mới, kết hợp chặt chẽ với các thủ đoạn tiến công cả về chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa… nhằm xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam, khuất phục nhân dân ta. Chúng ta đã nghiên cứu phát triển lý luận về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân BVTQ với phương châm: Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; đánh địch trên các môi trường, tập trung đánh bại địch trên hướng (khu vực) trọng điểm; vừa buộc địch bị động, phân tán, sa lầy, vừa chủ động thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian chiến tranh; vừa chiến đấu, vừa xây dựng, dựa vào sức mình là chính đồng thời ra sức tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tạo thành sức mạnh tổng hợp lớn nhất nhằm đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất. Kết hợp chặt chẽ phương thức chiến tranh nhân dân địa phương với phương thức chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực là nội dung cơ bản của phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân.

Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân BVTQ quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, là nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc; nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn”; nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu -“Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thế thời”, tích cực tiêu hao tiêu diệt địch đi đôi với bảo vệ vững chắc các mục tiêu của ta. Trong phát triển lý luận về nghệ thuật quân sự, đặc biệt coi trọng nghệ thuật tác chiến chiến lược, nghệ thuật chiến dịch, xây dựng khu vực phòng thủ và phòng thủ chiến lược BVTQ.

Trong xây dựng LLVT nhân dân, Đảng ta xác định tăng cường xây dựng LLVT nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Tập trung xây dựng QĐND và CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng và sức chiến đấu cao, luôn thực sự trung thành và tin cậy về chính trị, làm nòng cốt trong xây dựng lực lượng và thế trận QPTD gắn với xây dựng lực lượng và thế trận ANND vững chắc. Đảng ta chủ trương, tiếp tục điều chỉnh tổ chức lực lượng của quân đội với phương châm có tổng quân số hợp lý, lực lượng thường trực mạnh có khả năng cơ động và trình độ SSCĐ cao, đủ sức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ khi xử trí những tình huống chiến lược, là lực lượng quyết định về quân sự để ngăn chặn và đập tan mọi mầm mống chiến tranh trong thời bình. Cùng với đó, tập trung xây dựng lực lượng DQTV và DBĐV mạnh, có tổ chức chặt chẽ trên các địa bàn, nâng cao chất lượng huấn luyện, có cơ chế và phương thức động viên thích hợp để nhanh chóng phát triển lực lượng của quân đội khi cần thiết. Giải quyết VKTB cho LLVT nhân dân đồng bộ, từng bước hiện đại, phù hợp với khả năng thực tế của đất nước trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH, sát hợp với chiến trường và nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu chiến tranh nhân dân BVTQ trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Chúng ta chủ trương phát triển lý luận về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý điều hành, nhân dân làm chủ trong xây dựng tiềm lực và sức mạnh QPTD bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đây là một đặc trưng bản chất của quốc phòng Việt Nam đương đại - nền quốc phòng kiểu mới “Lấy dân làm gốc” phải thực sự là của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản và sự quản lý điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước XHCN…

Có thể khẳng định, sự phát triển về tư duy quốc phòng đã góp phần quan trọng tạo ra những thành tựu quan trọng của sự nghiệp đổi mới, CNH-HĐH đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, có tính quyết định thành công của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Rõ nhất là: Chính trị - xã hội ổn định; QP-AN được giữ vững; nội lực, tiềm năng của đất nước được phát huy; uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao… Đó là những thuận lợi rất cơ bản để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và BVTQ. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực hiện nay vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố khó lường. Nước ta vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ những năm trước. Mặt khác, chúng ta cũng phải thường xuyên đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch…

Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quán triệt, nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền QPTD bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng để tổ chức thực hiện đạt hiệu quả thiết thực. Cùng với tăng cường tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tiếp tục phát triển tư duy về quốc phòng BVTQ chúng ta cần kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng, quan điểm, nhận thức không đúng. Trong tình hình mới, Đảng ta chủ trương, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đại đa số nhân dân nhận thức đúng về vị trí, vai trò của quốc phòng. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận có cái nhìn phiến diện, hạn hẹp. Từ thực tế quốc phòng không tạo ra, hoặc tạo ra ít sản phẩm cho nền kinh tế, nhưng lại tiêu tốn nhiều ngân sách, của cải vật chất… nên trong thực tế xuất hiện khuynh hướng chỉ nhấn mạnh đến lợi ích kinh tế mà quên đi hoặc cắt xén lợi ích quốc phòng. Mặt khác, cần đấu tranh với những quan điểm cho rằng, quốc phòng là công việc của Bộ Quốc phòng, của LLVT, tách rời công tác quốc phòng với các mặt công tác và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

(Theo QĐND);

http://tuyengiao.vn/Home/Tuyen-truyen/27139/Phat-trien-tu-duy-moi-ve-quoc-phong

Quốc Đảm (st).

Khoa Giáo dục Quốc phòng, Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Tầng 7, phòng 710, Nhà C12 tầng, Số 18 Phố Viên, P. Đức Thắng, Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội
Tel: (+84-24) 38387615  
Email: giaoducquocphong@humg.edu.vn